BÁO CÁO
Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Hậu Giang
tháng 3 và ước quý I năm 2018
1.1. Tài chính:
Ước Tổng thu ngân sách nhà nước tháng 3 năm 2018 được 483.505 triệu đồng, lũy kế được 3.134.301 triệu đồng, đạt 48,72% dự toán Trung ương giao, đạt 48,72% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Nếu loại trừ tồn quỹ ngân sách năm 2017 mang sang được 1.349.613 triệu đồng, thì tổng thu ngân sách nhà nước lũy kế của tháng 3 được 1.784.688 triệu đồng, đạt 27,74% dự toán Trung ương giao, đạt 27,74% dự toán Hội đồng nhân dân giao. Trong đó, thu nội địa được 226.678 triệu đồng, lũy kế được 750.000 triệu đồng, đạt 27,42% dự toán Trung ương và dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 3 năm 2018 được 489.152 triệu đồng, luỹ kế được 1.541.978 triệu đồng, đạt 25,73% dự toán Trung ương giao, đạt 25,84% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó: Chi thường xuyên được 293.285 triệu đồng, luỹ kế được 926.168 triệu đồng, đạt 26,32% dự toán Trung ương và dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
1.2 Tín dụng ngân hàng:
Đến ngày 28/02/2018, huy động vốn trên địa bàn được 10.588 tỷ đồng, tăng trưởng 1,31% so với tháng trước và giảm 0,15% so với cuối năm 2017. Vốn huy động đáp ứng được 52,26% cho hoạt động tín dụng. Ước đến ngày 31/3/2018 huy động vốn trên địa bàn được 10.678 tỷ đồng, tăng trưởng 0,69% so với cuối năm 2017.
Cho vay trên địa bàn đến ngày 28/02/2017 được 20.260 tỷ đồng, tăng trưởng 0,05% so với tháng trước và tăng 0,66% so với cuối năm 2017. Ước đến ngày 31/3/2018, tổng dư nợ được 20.311 tỷ đồng, tăng trưởng 0,92% so với cuối năm 2017.
Nợ quá hạn đến ngày 28/02/2018 là 1.198 tỷ đồng chiếm 5,91% trên tổng dư nợ. Ước đến ngày 31/3/2018, nợ xấu toàn địa bàn vẫn ở mức dưới 3% trên tổng dư nợ.
2.1. Vốn đầu tư:
Tính đến ngày 16 tháng 3 năm 2018, kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2018 là 17.278.935 triệu đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 1.868.935 triệu đồng.
- Vốn vay Ngân hàng phát triển: Chưa phân bổ.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn: 1.210.000 triệu đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là: 14.200.000 triệu đồng.
Ước tính vốn đầu tư thực hiện được trong tháng 3 năm 2018 là 1.523.020 triệu đồng, bằng 105,84% so với cùng kỳ năm trước và bằng 106,82% so với tháng trước. Nguyên nhân vốn đầu tư thực hiện tăng so với tháng trước là do: Nguồn vốn XDCB năm 2018 đã phân bổ ngay từ đầu năm, nên các chủ đầu tư không gặp khó khăn về nguồn vốn, công trình được triển khai thi công liên tục; Tháng cao điểm thực hiện chiến dịch giao thông nông thôn và thủy lợi mùa khô năm 2018.
Ước tính quý I năm 2018, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 4.320.870 triệu đồng, bằng 106,15% so với cùng kỳ năm trước và đạt 25,01% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 504.030 triệu đồng, bằng 159,44% so với cùng kỳ năm trước và đạt 26,97% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 254.280 triệu đồng, bằng 90,05% so với cùng kỳ năm trước và đạt 21,01% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 3.562.560 triệu đồng, bằng 102,61% so với cùng kỳ năm trước và đạt 25,09% so với kế hoạch năm.
Để thực hiện hoàn thành kế hoạch vốn đầu tư XDCB năm 2018 của tỉnh Hậu Giang, Cục Thống kê khuyến nghị một số giải pháp như sau:
Một là: Các sở, ngành cần kiểm tra, đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình XDCB, mà đặc biệt là các công trình trọng điểm trên địa bàn; đồng thời gắn với việc giám sát, kiểm tra chất lượng công trình, nhanh chóng hoàn thành các công trình XDCB đang tồn đọng nhất là các công trình dự án trọng điểm đã bố trí vốn (giao thông, nông nghiệp, y tế, giáo dục, v.v…)
Hai là: Tập trung hoàn thành các công trình khánh thành và khởi công theo đúng tiến độ.
Ba là: Đẩy nhanh tiến độ lập thủ tục XDCB đối với các công trình dự án đã được bố trí vốn, nhanh chóng làm thủ tục quyết toán các công trình đó hoàn thành.
Bốn là: Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban ngành cấp tỉnh và các địa phương trong việc giải quyết các vấn đề vướng mắc trong đầu tư XDCB.
2.2. Xây dựng:
Ước tính quý I năm 2018, giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá hiện hành trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 1.540.550 triệu đồng, so với quý trước bằng 112,57% và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,81% (1.330.250 triệu đồng). Trong đó loại hình Doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện được 685.720 triệu đồng, so với quý trước bằng 95,12% và so với cùng kỳ năm trước bằng 117,22%; loại hình khác gồm Xã, Phường, Thị trấn và hộ dân cư thực hiện được 854.830 triệu đồng, so với quý trước bằng 132,01% và so với cùng kỳ năm trước bằng 114,70%. Giá trị sản xuất ngành xây dựng chia theo loại công trình ước thực hiện trong quý 1 năm 2018 như sau:
- Công trình nhà ở thực hiện được 779.485 triệu đồng, so với quý trước bằng 105,02% và so với cùng kỳ năm trước bằng 112,42%.
- Công trình nhà không để ở thực hiện được 254.370 triệu đồng, so với quý trước bằng 115,35% và so với cùng kỳ năm trước bằng 123,73%.
- Công trình kỹ thuật dân dụng thực hiện được 447.450 triệu đồng, so với quý trước bằng 141,37% và so với cùng kỳ năm trước bằng 124,08%.
- Hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 59.245 triệu đồng, so với quý trước bằng 66,38% và so với cùng kỳ năm trước bằng 83,82%.
Đến nay, tình hình xây dựng trên địa bàn Tỉnh chủ yếu tập trung vào các công trình nhà ở dân dụng và đường giao thông. Riêng các công trình trọng điểm thuộc ngân sách nhà nước có qui mô lớn thì hầu hết đều do các Doanh nghiệp ngoài tỉnh thi công. Do vậy, đề nghị Lãnh đạo các cấp, các ngành có kế hoạch cụ thể, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, để các Doanh nghiệp xây dựng trong tỉnh được thi công nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành xây dựng của Tỉnh tăng cao.
3.1. Nông nghiệp:
- Trồng trọt
+ Lúa đông xuân: Ước toàn tỉnh đã xuống giống được 77.917 ha, bằng 100,28% so với kế hoạch và tăng 0,07% (53,8 ha) so với cùng kỳ. Diện tích thu hoạch ước được 12.863 ha, tập trung chủ yếu ở huyện Châu Thành A, Phụng Hiệp và Vị Thủy. Năm nay, lúa đông xuân xuống giống trễ hơn so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu lúa đang ở giai đoạn trổ chín và thu hoạch. Các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM 5451 chiếm tỷ lệ 53,4%, RVT chiếm 12,2%, IR 50404 chiếm 10,3%, Đài thơm 8 chiếm 7,7%, Jasmine chiếm 5% và giống khác chiếm 11,4%. Năng suất ước được 70,19 tạ/ha, tăng 2,83% so với cùng kỳ (bằng 1,93 tạ/ha); Sản lượng lúa đông xuân năm nay ước tính được 546.899 tấn, tăng 2,89% (bằng 15.378 tấn) so với cùng kỳ.
Tình hình dịch bệnh: Bà con nông dân đang tích cực chú ý các đối tượng gây hại lúa đông xuân như bệnh rầy nâu, đậu ôn cổ bông, bạc lá và bệnh lem lép hạt. Nhìn chung, tình hình dịch bệnh đang được kiểm soát và ngăn chặn kịp thời.
+ Lúa hè thu: Ước toàn tỉnh đã xuống giống được 1.113 ha, bằng 1,45% so với kế hoạch (kế hoạch của tỉnh là 76.800 ha).
+ Mía niên vụ 2018: Toàn tỉnh đã xuống giống được 10.516 ha tập trung ở huyện Phụng Hiệp, Long Mỹ, Thành phố Vị Thanh và Thị xã Ngã Bảy. Các giống mía chủ yếu là giống mía ngắn ngày như: ROC 16; K85-92; ROC 22; R570,…
+ Cây ngô: Diện tích gieo trồng toàn tỉnh được 1.546 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 1,44% (bằng 22 ha).
+ Cây rau, đậu các loại: Diện tích gieo trồng cây rau 6.378 ha, so với năm trước tăng 1,51% (bằng 95 ha).
- Chăn nuôi:
Ước tính tháng 3, số đầu con gia súc, gia cầm cụ thể như sau:
+ Đàn lợn thịt (heo thịt): Có 126.953 con, so với cùng kỳ năm trước tăng 2,56% (bằng 3.173 con).
+ Đàn gia cầm: Có 3.996 ngàn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,01% (bằng 154 ngàn con).
Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến nay, dịch bệnh trên gia súc gia cầm chưa xảy ra trong địa bàn tỉnh. Ngành thú y tiếp tục duy trì công tác tiêm phòng dịch bệnh ở đàn gia súc và dịch cúm trên gia cầm; tăng cường công tác kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật, kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y đảm bảo an toàn thực phẩm.
3.2. Lâm nghiệp:
Công tác phòng cháy chữa cháy rừng: Từ đầu năm đến nay, công tác phòng cháy chữa cháy rừng được đảm bảo, không xảy ra vụ cháy rừng nào trên địa bàn tỉnh.
- Công tác bảo vệ rừng: Công tác thẩm định, giám sát, kiểm tra, nghiệm thu khai thác rừng, cây phân tán đảm bảo đúng quy định nên diện tích rừng được bảo vệ an toàn.
- Công tác quản lý rừng: Trong quý I, diện tích rừng trồng mới ước được 37,7 ha, giảm 4,22% ( bằng 1,66 ha) so với cùng kỳ, khai thác gỗ được 3.186 m3, tăng 2,02% (bằng 63 m3) so với cùng kỳ, sản lượng củi khai thác được 31.163 Ster, giảm 4,17% (bằng 1.356 Ster) so với cùng kỳ.
3.3. Thủy sản:
Nuôi trồng thủy sản trong quý I năm 2018:
- Về diện tích: Toàn tỉnh ước tính được 1.869,6 ha, giảm 0,82% ( bằng 15,5 ha) so với cùng kỳ năm trước.
- Về sản lượng: Toàn tỉnh ước được 15.826 tấn, tăng 0,79 (bằng 123,75 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
+ Sản lượng thủy sản nuôi trồng được 15.051 tấn, tăng 0,94% (bằng 139,94 tấn).
+ Sản lượng thủy sản khai thác được 775 tấn, giảm 2,05% (bằng 16,19 tấn).
Nhìn chung: Tình hình sản xuất quý I năm 2018 ngành nông nghiệp tập trung vào công tác phòng chống rầy nâu, sâu cuốn lá, đạo ôn lá, đạo ôn cổ bông, lem lép hạt trên lúa đông xuân. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, phòng dịch trên gia súc, gia cầm.
Tình hình sản xuất công nghiệp những tháng đầu năm 2018 tiếp tục tăng so với cùng kỳ và có nhiều tín hiệu khả quan, nhiều nhóm ngành vừa đảm bảo nhu cầu sử dụng trong nước, vừa góp phần quan trọng cho tăng trưởng xuất khẩu. Ngành công nghiệp chế biến được coi là điểm sáng và là động lực tăng trưởng cho sản xuất công nghiệp trong suốt thời gian vừa qua. Cụ thể:
Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) ước tính tháng 3/2018 bằng 106,06% so với cùng tháng năm trước, cụ thể:
- Công nghiệp chế biến, chế tạo bằng 106,19%. Trong đó, ngành sản xuất đồ uống tăng 75,06% so cùng kỳ năm trước.
- Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí bằng 108,54%.
- Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải bằng 98,35%, giảm 1,65% so cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành khai thác sử lý và cung cấp nước giảm 5,17%.
So với quý 1 năm 2017, chỉ số IIP quý I năm 2018 tăng 24,78% so với cùng kỳ. Cụ thể:
- Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 25,53%. Trong đó, ngành sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 144,80% so cùng kỳ năm trước.
- Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí tăng 8,60% so với cùng kỳ.
- Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,31% so với cùng kỳ.
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện tháng 3 năm 2018:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 1.992.601 triệu đồng, tăng 22,43% so với tháng trước và tăng 19,40% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá thực tế, được 2.743.219 triệu đồng, tăng 22,34% so với tháng trước và tăng 19,76% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng so với tháng trước là do các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động ổn định và tăng sản lượng sau thời gian nghỉ Tết Nguyên Đán để hoàn thành các hợp đồng đã ký trước đó với khách hàng trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, tăng một phần là do các cơ sở cá thể sản xuất công nghiệp, tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước.
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện quý I năm 2018:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 5.564.085 triệu đồng, tăng 18,76% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá thực tế, được 7.629.176 triệu đồng, tăng 20,68% so với cùng kỳ năm trước. Hiện tại, trên đị bàn tỉnh Hậu Giang có trên 164 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, đóng góp giá trị trên 7.545 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 98,89% trong tổng số giá trị của toàn tỉnh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã tận dụng được nguồn nguyên liệu tập trung tại chổ, lao động sẵn có, chi phí nhân công thấp… Chính các yếu tố trên đã thúc đẩy các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư mở rộng nhà máy, không ngừng đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, hạ giá thành sản phẩm nên giá trị sản xuất công nhiệp ước quý I năm 2018 tăng so với cùng kỳ.
Nhìn chung, quý I năm 2018, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển tương đối đồng đều và ổn định. Tuy nhiên, dù đã có sự tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về giá, thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, xăng dầu,... Do vậy, để hoàn thành kế hoạch năm 2018, các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này cần nỗ lực hơn để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp ngày càng tăng trong những tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ:
Ước thực hiện tháng 3 năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 2.906.173 triệu đồng, so với thực hiện tháng trước bằng 91,51% và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,36%.
Sau Tết Nguyên Đán thị trường hàng hóa dần trở lại hoạt động ổn định, tại các chợ, khu thương mại, siêu thị lượng hàng hóa không còn được bày bán nhiều như trước, nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, do đó các nhóm hàng hóa trong Tết tăng cao thì bước qua tháng 3 lại giảm mạnh như: lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, đồ dùng… Đối với ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ khác cũng có cùng xu hướng.
Ước thực hiện quý I năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 9.110.019 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,07%. Chia ra:
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa thực hiện được 6.732.879 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,11%.
- Ngành dịch vụ (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 852.676 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 109,65%.
- Ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 1.524.464 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 104%.
Với số liệu trên cho thấy ngành thương mại trên địa bàn tỉnh ước quý I năm 2018 có tốc độ tăng ổn định và không có nhiều biến động so với cùng kỳ (tăng 6,11%). Các nhóm hàng có mức tăng khá so với cùng kỳ là đồ dùng, xăng dầu, gas, kim loại quý, đá quý… đây là các mặt hàng nhạy cảm trước biến động của thị trường, nên để duy trì tốc độ tăng này cho những tháng tiếp theo còn phụ thuộc vào giá cả và mức tiêu thụ trong dân. Đối với nhóm hàng thực phẩm giá cả so với cùng kỳ không tăng nhưng sản lượng tiêu thụ cao trong tháng giáp Tết và trong Tết nên so với cùng kỳ có tăng nhưng tăng không cao như các nhóm hàng trên. Trong quý I, loại hình kinh tế tư nhân tăng cao (tăng 11,52%), đây cũng là điều phù hợp với xu hướng của kinh tế thị trường, mặt dù số lượng doanh nghiệp không nhiều, nhưng chất lượng doanh nghiệp thương mại hoạt động hiệu quả, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh nhóm hàng lương thực, thực phẩm, hàng nông sản, xăng, dầu, gas, đồ dùng gia đình…
Đối với ngành lưu trú, ăn uống trong quý I năm 2018 có tốc độ tăng tương đối (tăng 4%). Do nhu cầu thực tế của người dân không tăng, quy mô và số lượng cơ sở kinh doanh ổn định. Bên cạnh đó, Hậu Giang cũng là tỉnh chưa phát triển về du lịch nên chủ yếu phục vụ cho nhu cầu khách địa phương.
Riêng ngành dịch vụ tăng khá cao (tăng 9,65%) do nhóm dịch vụ vui chơi giải trí tăng cao, các địa điểm phục vụ nhu cầu vui chơi của người dân trong dịp Tết được quan tâm tổ chức và một số khu vui chơi mới trong các siêu thị và công viên giải trí Kittyd & Minnied được đưa vào sử dụng trong dịp Tết đã phục vụ cho một lượng lớn nhu cầu của người dân trong tỉnh và các địa phương lân cận.
Nhìn chung, tình hình thương mại - dịch vụ ước thực hiện quý I năm 2018 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang có tốc độ tăng trưởng khá tốt (tăng 6,07%). Tuy nhiên, hiện nay đang là mùa nắng nóng, tình trạng xâm nhập mặn có thể diễn ra ở một số vùng, ảnh hưởng đến ngành nông nghiệp và đời sống của người dân. Vì vậy, để trong thời gian tới có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng này các cấp lãnh đạo cần đề ra phương hướng hoạt động cụ thể cho ngành thương mại - dịch vụ nói chung và kinh tế địa phương nói riêng. Đặc biệt cần chú ý đến việc đầu tư, xây dựng ngành dịch vụ để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu người dân.
5.2. Tình hình xuất nhập khẩu:
Ước thực hiện tháng 3 năm 2018, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 72,981 triệu USD, so với tháng trước bằng 105,04% và so với cùng kỳ bằng 97,25%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 47,418 triệu USD so với tháng trước bằng 110,40% và so với cùng kỳ năm trước bằng 98,86%.
Nguyên nhân ước giá trị xuất trực tiếp tăng so với tháng trước là do sau kỳ nghỉ Tết cổ truyền các Doanh nghiệp sẽ trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, gia tăng công suất của nhà máy chế biến để tăng sản lượng nhằm kịp thời thanh toán những đơn đặt hàng đã ký kết.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 25,563 triệu USD so với tháng trước bằng 96,35% và so với cùng kỳ bằng 94,41%.
Ước thực hiện quý I năm 2018, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 232,367 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 128,15% và so với kế hoạch năm đạt 21,92%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 133,677 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 112,55% và so với kế hoạch năm đạt 18,67%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 82,408 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 177,52% và so với kế hoạch năm đạt 30,52%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 241 ngàn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 18,60% và so với kế hoạch năm đạt 6,03%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 16,041 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 108,16% và so với kế hoạch năm đạt 22,92%.
Nguyên nhân ước giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ là do vừa qua nhà nước đã ban hành và phê duyệt một số chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm Tôm chế biến xuất khẩu, từng bước dịch chuyển xu hướng từ chạy theo sản lượng sang việc chú trọng nâng cao chất lượng, mục tiêu là đưa ngành Tôm phát triển một cách bền vững, tiến tới trở thành ngành công nghiệp sản xuất chế biến chủ lực và ngày càng nâng cao giá trị cũng như tính cạnh tranh của con Tôm trên thị trường thế giới, mở đường cho việc mở rộng thị trường và hạn chế vướng phải những rào cản thương mại mà các nước nhập khẩu dựng lên. Vì vậy, giá trị xuất khẩu trong quý I có thể sẽ tăng so với cùng kỳ.
Hiện nay, việc xuất khẩu các mặt hàng thủy sản điển hình là con Tôm vẫn đang còn đối mặt với nhiều khó khăn từ các nước nhập khẩu. Chương trình giám sát thẻ vàng IUU, các rào cản thương mại thuế quan và phi thuế quan là những khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp đang phải đối mặt.
Vì vậy, để ngành xuất khẩu thủy sản có thể tiếp tục tiếp bước đà tăng trưởng vượt bậc của năm 2017 thì trong thời gian tới, về phía các ngành chức năng cần hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp trong việc cập nhật các thông tin về diễn biến thị trường, các qui định mới đối với hàng hóa xuất khẩu vào các thị trường khó tính, tập trung tháo gỡ các rào cản, bảo vệ quyền và lợi ích của các doanh nghiệp trong các vấn đề tranh chấp thương mại trên thị trường. Về phía các doanh nghiệp, dựa trên những thông tin được các ngành chức năng phổ biến, cần xây dựng kế hoạch đưa ra những giải pháp ứng phó hữu hiệu theo hướng có lợi nhất, làm giảm thiệt hại đến mức tối đa. Thêm vào đó, cần chú trọng xây dựng phương án tổ chức sản xuất kinh doanh hợp lý theo hướng chuỗi liên kết giá trị bền vững giữa người nuôi với doanh nghiệp và thị trường, đồng thời chú trọng tăng cường nâng tầm cho sản phẩm để đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng, giá trị cao, thúc đẩy tăng giá trị xuất khẩu chung.
5.3. Tình hình giao thông vận tải:
Ước thực hiện quý I năm 2018, tổng doanh thu đường bộ, đường sông và dịch vụ, đại lý hỗ trợ vận tải được 325.074 triệu đồng, so với cùng kỳ bằng 120,74%. Trong đó, đường bộ được 185.371 triệu đồng, tăng 44,30% so với cùng kỳ, nguyên nhân tăng là do khối lượng vận chuyển hàng hóa đường bộ tăng, thời điểm gần cuối năm 2017, một số doanh nghiệp mới chính thức đi vào hoạt động kéo theo khối lượng vận chuyển hàng hóa và doanh thu tăng cao so với cùng kỳ. Đường sông được 139.703 triệu đồng, bằng 99,24% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân không tăng cao là do một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa đường sông đã giải thể và chuyển đổi ngành nghề kinh kinh doanh sang lĩnh vực khác. Vì vậy đã làm giảm đáng kể doanh thu và sản lượng vận chuyển hàng hóa đường sông so với cùng kỳ.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành vận tải phát triển, các ngành chức năng đã chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị thi công tiến hành thực hiện việc sửa chữa, duy tu các đoạn đường đã hư hỏng nặng, đồng thời mở rộng một số tuyến đường quan trọng kết nối các địa phương với nhau, tạo điều kiện giao thương hàng hóa thông thoáng, đảm bảo hàng hóa được vận chuyển lưu thông dễ dàng tới các điểm chợ nông thôn phục vụ cho nhu cầu của người dân.
Bên cạnh đó, việc tuần tra kiểm soát, kiên quyết xử lý và đình chỉ các phương tiện tham gia giao thông không đảm bảo an toàn, lái xe không có Giấy phép theo quy định, xử lý nghiêm trường hợp chở quá tải, quá số người quy định. Tăng cường công tác kiểm tra phương tiện vận chuyển hàng hóa, hành khách không đảm bảo an toàn giao thông, ngăn chặn các hành vi vi phạm các quy định về vận tải cũng được các lực lượng chức năng thực hiện thường xuyên liên tục.
Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa:
Ước thực hiện tháng 3 năm 2018, toàn tỉnh vận chuyển được 895.537 tấn (38.376.320 tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 80,73% (80,59%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 106,11% (162,83%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 350.833 tấn (21.059.041 tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 79,08% (72,64%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 169,64% (390,71%).
- Đường sông thực hiện được 544.704 tấn (17.317.279 tấn.km), so với thực hiện tháng trước bằng 81,84% (92,97%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 85,49% (95,26%).
Ước thực hiện quý I năm 2018, toàn tỉnh vận chuyển được 3.069.755 tấn (134.932.281 tấn.km) so với cùng kỳ bằng 122,88% (180,47%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 1.227.590 tấn (78.952.141 tấn.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 211,48% (430,69%).
- Đường sông thực hiện được 1.842.165 tấn (55.980.140 tấn.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 96,06% (99,19%).
Vận chuyển, luân chuyển hành khách:
Ước thực hiện tháng 3 năm 2018, vận chuyển được 9.661.968 lượt hành khách (57.521.841 HK.km), so với tháng trước bằng 97,09% (91,54%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,76% ( 108,07%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 8.129.218 lượt hành khách (44.963.982 HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 96,87% (89,97%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 101,22% (106,72%).
- Đường sông vận chuyển được 1.532.750 lượt hành khách (12.557.859 HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 98,29% (97,62%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 119,68% (113,19%).
Ước thực hiện quý I năm 2018, vận chuyển được 29.123.571 lượt hành khách (174.690.380 HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 103,88% (107,84%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 24.602.308 lượt hành khách (137.033.360 HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 101,62% (106,34%).
- Đường sông vận chuyển được 4.521.263 lượt hành khách (37.657.020 HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 118,18% (113,69%).
6.1. Đào tạo nghề và giải quyết việc làm:
- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức 02 lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho 50 nhà giáo tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Sở đã ban hành Kế hoạch triển khai đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2018; hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh lập dự toán chi phí đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2018 và đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
- Trong quý I, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 3.831 lao động, đạt 25,54% chỉ tiêu kế hoạch năm 2018, giảm 15,2% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là 13 người. Ban hành Quyết định hưởng chế độ Bảo hiểm thất nghiệp theo quy định cho 646 người lao động với số tiền trên 8.077,953 triệu đồng.
- Tổ chức Hội nghị sơ kết công tác đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
- Thỏa thuận và ký kết Hợp đồng cung ứng lao động với 12 doanh nghiệp, với số lao động được đề nghị cung ứng là 417 lao động. Hỗ trợ tuyển dụng, cung ứng lao động Việt Nam vào làm việc tại các vị trí dự kiến tuyển người lao động nước ngoài cho Công ty Fichtner GMBH&CO.KG.
- Tổ chức vận động người lao động sắp hết hạn Hợp đồng làm việc tại Hàn Quốc về nước đúng hạn và 05 trường hợp người lao động hết hạn hợp đồng, bỏ trốn trở lại làm việc theo quy định.
6.2. An sinh xã hội:
Công tác giảm nghèo và bảo trợ xã hội:
- Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh năm 2018; hướng dẫn các địa phương thực hiện rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo thường xuyên năm 2018. Làm việc với các địa phương đã được công nhận hoặc chuẩn bị công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới nhưng chưa đạt tiêu chí số 11 về hộ nghèo.
Quý I, sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã trợ cấp thường xuyên cho 85.487 đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền trên 31 tỷ đồng; hỗ trợ mai táng phí cho 431 trường hợp với số tiền trên 2 tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất cho 15 trường hợp, kinh phí trên 122 triệu đồng. Cấp mới 19.920 thẻ BHYT với số tiền gần 3.500 triệu đồng. Ngoài ra trong quý, các trung tâm trực thuộc sở Lao động – Thương binh và Xã hội có những hoạt động sau:
- Hội Bảo trợ Người khuyết tật - Trẻ mồ côi - Bệnh nhân nghèo tỉnh đã tích cực vận động các nhà hảo tâm, mạnh thường quân được số tiền hơn 157 triệu đồng và 65 chiếc xe lăn để chăm lo cho các hội viên. Tiếp nhận tài trợ từ Hội Assorv (Pháp) với số tiền 383 triệu đồng để chăm sóc, nuôi dưỡng 43 trẻ em ở Nhà nuôi trẻ mồ côi Hoa Mai Vị Thanh và 22 trẻ em ở Nhà nuôi trẻ mồ côi Hoa Mai Cần Thơ.
- Ban Đại diện Hội Người cao tuổi tỉnh có số hội viên hiện tại là 63.780 người. Hội đã vận động được số tiền hơn 2.266 triệu đồng để hỗ trợ cho các hội viên nhân dịp Tết; phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho 13.739 người cao tuổi.
- Hội Người mù tỉnh đã vận động được hơn 371triệu đồng để hỗ trợ cho các hội viên trong dịp Tết. Từ nguồn vốn của Trung ương Hội và của các mạnh thường quân, đã tổ chức cho 06 hội viên vay vốn với số tiền là 51 triệu đồng để tăng gia sản xuất, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống.
Lĩnh vực Thanh tra và Phòng, chống tệ nạn xã hội
Trong quý I, ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đã:
- Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 197 cuộc với 8.408 người tham dự. Trong đó, nội bộ có 43 cuộc với 1.198 lượt người tham dự, ra dân có 154 cuộc với 7.210 người tham dự. Thực hiện kế hoạch của Ban chỉ đạo 138 tỉnh về việc kiểm tra xử lý vi phạm về trật tự xã hội, tệ nạn xã hội. Đội, tổ kiểm tra liên ngành các cấp đã kiểm tra được 264 lượt cơ sở; phát hiện 28 cơ sở vi phạm; phạt hành chính 11 cơ sở với số tiền 16,95 triệu đồng; cho cam kết và nhắc nhở 67 cơ sở.
- Tiếp nhận mới 04 đơn thư khiếu nại, tố cáo mới của công dân, đã giải quyết dứt điểm 04 đơn, không có đơn thư tồn đọng.
- Xây dựng Kế hoạch và đề cương kiểm tra việc thực hiện kiến nghị thanh tra và việc thực hiện các quy định của pháp luật về Lao động, việc làm; An toàn, vệ sinh lao động và Bảo hiểm xã hội tại 06 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Phát phiếu tự kiểm tra việc thực hiện pháp luật lao động tại 150 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Lĩnh vực văn hóa và thể thao
Ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã thực hiện được 350 m2 panô các loại, 12 băng rol, treo và tháo gỡ 500 cờ các loại, 62 lượt phóng thanh cổ động, trang trí khánh tiết, phục vụ âm thanh ánh sáng, hỗ trợ chương trình văn nghệ cho các cuộc hội nghị, họp mặt, hội thi, hội diễn, liên hoan, hội chợ theo yêu cầu của các đơn vị ngoài ngành.
Đội tuyên truyền lưu động tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố tổ chức giao lưu trong và ngoài tỉnh 02 cuộc; xây dựng chương trình nghệ thuật quần chúng biểu diễn tại các xã, phường, thị trấn với 68 buổi, thu hút 35.300 lượt người xem.
Trong tháng, hệ thống thư viện tỉnh và huyện đã phục vụ 76.723 lượt người với 152.591 lượt sách báo, truy cập máy tính; Thư viện tỉnh và huyện cấp mới 142 thẻ bạn đọc. Luân chuyển sách cho cơ sở: 05 lần với 600 bản sách.
6.3. Tình hình thực hiện an toàn giao thông:
Theo số liệu của Ban an toàn giao thông tỉnh Hậu Giang, trong tháng 3 năm 2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 07 vụ tai nạn giao thông, tập trung ở đường bộ. So với tháng trước giảm 06 vụ và giảm 01 vụ so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có tổng số 07 người chết, so với tháng trước giảm 03 người và giảm 01 người so với cùng kỳ năm trước. Với số vụ tai nạn trên không có người bị thương, so với tháng trước giảm 08 người và giảm 02 người so cùng kỳ năm trước.
Trong 3 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 36 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 35 vụ, đường sông 01 vụ), làm chết 32 người và bị thương 16 người chủ yếu tập trung ở đường bộ. So với cùng kỳ năm trước, tăng 19 vụ (đường bộ tăng 18 vụ, đường sông tăng 01 vụ), số người chết tăng 15 người, số người bị thương tăng 11 người chỉ tập trung ở đường bộ.
6.4.Tình hình thực hiện an toàn cháy nổ:
Trong năm 2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 02 vụ cháy, Không có thiệt hại về người. Tổng giá trị thiệt hại tài sản ước tính gần 280 triệu đồng. Nguyên nhân do thời tiết nắng hạn nhiều, ít mưa nên dễ sảy ra cháy nổ. Vì vậy, mọi tổ chức và cá nhân cần tăng cường những biện pháp phòng chống cháy nổ trong mùa khô này./.
CỤC THỐNG KÊ TỈNH HẬU GIANG
Địa chỉ: Số 05 Đường Điện Biên Phủ, Phường 5, TP. Vị Thanh, Hậu Giang,
Trưởng Ban Biên Tập: Thiều Vĩnh An, Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang
Điện thoại: 0293.3878991 - Fax: 0293.3878991 - Email: Haugiang@gso.gov.vn
© 2018 Thiết kế bởi: Trung tâm CNTT-TT Hậu Giang