BÁO CÁO
Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Hậu Giang
tháng 8, ước tháng 9, ước quý III và 9 tháng năm 2018
1.1. Tài chính
Ước tổng thu ngân sách nhà nước tháng 9 được 630.969 triệu đồng, lũy kế được 7.076.854 triệu đồng, đạt 110% dự toán Trung ương giao, đạt 109,76% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Nếu loại trừ thu chuyển nguồn năm 2017 mang sang ngoài dự toán là 1.753.925 triệu đồng, thì tổng thu ngân sách nhà nước lũy kế của 9 tháng được 5.322.929 triệu đồng, đạt 82,74% dự toán Trung ương giao, đạt 82,56% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó, thu nội địa được 245.000 triệu đồng, lũy kế được 2.219.923 triệu đồng, đạt 81,17% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi ngân sách nhà nước tháng 9 được 563.782 triệu đồng, luỹ kế được 5.208.879 triệu đồng, đạt 85,72% dự toán Trung ương giao, đạt 63,69% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó, chi xây dựng cơ bản được 255.765 triệu đồng, luỹ kế được 2.214.914 triệu đồng, đạt 93,18% dự toán Trung ương giao, đạt 59,30% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
1.2 Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 31 tháng 8, tổng vốn huy động toàn địa bàn được 11.611 tỷ đồng, tăng trưởng 9,49% so với cuối năm 2017. Vốn huy động đáp ứng được 55,12% cho hoạt động tín dụng. Dự báo đến ngày 30 tháng 9, tổng vốn huy động trên địa bàn được 11.730 tỷ đồng, tăng 1,02% so với cuối tháng 8.
Đến ngày 31 tháng 8, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn được 21.070 tỷ đồng, tăng trưởng 4,69% so với cuối năm 2017. Ước thực hiện đến ngày 30 tháng 9, tổng dư nợ cho vay trên toàn địa bàn được 21.191 tỷ đồng, tăng 0,57% so với cuối tháng 8.
Nợ xấu đến ngày 31 tháng 8, toàn tỉnh là 644 tỷ đồng, chiếm 3,06% trên tổng dư nợ. Ước đến ngày 30 tháng 9, nợ xấu toàn địa bàn được kiểm soát ở mức dưới 3% trên tổng dư nợ.
2.1. Vốn đầu tư
Tính đến ngày 14 tháng 9, kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2018 là 17.475.476 triệu đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 2.065.476 triệu đồng.
- Vốn vay Ngân hàng phát triển: Chưa phân bổ.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn: 1.210.000 triệu đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là: 14.200.000 triệu đồng.
Vốn đầu tư thực hiện được trong tháng 8 là 1.435.530 triệu đồng, bằng 94,41% so với tháng trước và bằng 104,17% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 134.240 triệu đồng, bằng 90,55% so với tháng trước và bằng 106,10% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 80.690 triệu đồng, bằng 90,01% so với tháng trước và bằng 89,08% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.220.600 triệu đồng, bằng 95,16% so với tháng trước và bằng 105,14% so với cùng kỳ năm trước.
Đến đầu tháng 9, các Khu công nghiệp và Cụm công nghiệp tập trung trên địa bàn tỉnh5 Hậu Giang đã thu hút được 49 dự án đầu tư, gồm 48 dự án đầu tư sản xuất kinh doanh và 01 dự án đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng, với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 69.795.100 triệu đồng và 763,7 triệu USD, với quy mô diện tích đăng ký khoảng 659.410 ha, đã giao mặt bằng được 520.190 ha.
Ước tính vốn đầu tư thực hiện được trong tháng 9 là 1.409.165 triệu đồng, bằng 112,14% so với cùng kỳ năm trước và bằng 98,16% so với tháng trước.
Ước tính quý III, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 4.365.285 triệu đồng, bằng 107,53% so với cùng kỳ năm trước (4.059.465 triệu đồng) và bằng 90,11% so với quý trước.
Nguyên nhân vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tháng 9 và quý III giảm so với tháng trước và quý trước là do: Vào mùa mưa nên ảnh hưởng đến tiến độ thi công của các công trình trọng điểm; công tác giải phóng mặt bằng triển khai chậm; các dự án của nhà đầu tư thực hiện còn chưa đúng kế hoạch đã đăng ký ở các Khu, cụm Công nghiệp; quý kết thúc thực hiện chiến dịch giao thông nông thôn và thủy lợi mùa khô năm 2018.
Ước tính 9 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 13.498.100 triệu đồng, bằng 105,20% so với cùng kỳ năm trước và đạt 77,24% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 1.525.630 triệu đồng, bằng 131,47% so với cùng kỳ năm trước và đạt 73,86% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 918.560 triệu đồng, bằng 105,58% so với cùng kỳ năm trước và đạt 75,91% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 11.053.910 triệu đồng, bằng 102,35% so với cùng kỳ năm trước và đạt 77,84% so với kế hoạch năm.
2.2. Xây dựng
Ước tính quý III, giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá hiện hành trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 1.585.744 triệu đồng, so với quý trước bằng 106,20% và so với cùng kỳ năm trước (1.495.800 triệu đồng) bằng 106,01%. Trong đó loại hình Doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện được 1.214.837 triệu đồng, so với quý trước bằng 109,09% và so với cùng kỳ năm trước bằng 219,18%; loại hình khác gồm Xã, Phường, Thị trấn và hộ dân cư thực hiện được 370.907 triệu đồng, so với quý trước bằng 97,72% và so với cùng kỳ năm trước bằng 39,39%. Giá trị sản xuất ngành xây dựng chia theo loại công trình ước thực hiện trong quý 3 năm 2018 như sau:
- Công trình nhà ở thực hiện được 440.780 triệu đồng, so với quý trước bằng 94,47% và so với cùng kỳ năm trước bằng 58,74%.
- Công trình nhà không để ở thực hiện được 554.267 triệu đồng, so với quý trước bằng 107,70% và so với cùng kỳ năm bằng 380,68%.
- Công trình kỹ thuật dân dụng thực hiện được 500.807 triệu đồng, so với quý trước bằng 121,27% và so với cùng kỳ năm trước bằng 108,81%.
- Hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 89.890 triệu đồng, so với quý trước bằng 90,79% và so với cùng kỳ năm trước bằng 64,43%.
Nguyên nhân giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng so với quý trước là do thời tiết thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động xây dựng; các thủ tục đã hoàn thành từ đầu năm; quý cao điểm thực hiện chiến dịch giao thông nông thôn và thủy lợi mùa khô năm 2018 đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất.
Tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá hiện hành 9 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 4.514.848 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước (3.942.300 triệu đồng) bằng 114,52%. Trong đó loại hình Doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện được 3.129.688 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 182,71%; loại hình khác gồm Xã, Phường, Thị trấn và hộ dân cư thực hiện được 1.385.160 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 62,13%. Giá trị ngành xây dựng chia theo loại công trình thực hiện 9 tháng năm 2018 như sau:
- Công trình nhà ở thực hiện được 1.561.011 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước (1.871.630 triệu đồng) bằng 83,40%.
- Công trình nhà không để ở thực hiện được 1.339.482 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước (579.600 triệu đồng) bằng 231,10%.
- Công trình kỹ thuật dân dụng thực hiện được 1.299.768 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước (1.194.170 triệu đồng) bằng 108,84%.
- Hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 314.587 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước (296.900 triệu đồng) bằng 105,96%.
Nguyên nhân giá trị sản xuất ngành xây dựng thực hiện 9 tháng tăng so với cùng kỳ năm trước là do hiện nay giá cả nhóm hàng vật liệu xây dựng, chi phí máy thi công và chi phí nhân công tăng cao; một số công trình cơ bản đã hoàn thành đưa vào sử dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư và nhà thầu góp phần làm tăng giá trị sản xuất; tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, thắt chặt tiết kiệm chi tiêu, kiềm chế lạm phát, chống lãng phí.
Đến nay, tình hình xây dựng trên địa bàn Tỉnh chủ yếu tập trung vào các công trình nhà ở dân dụng và đường giao thông. Riêng các công trình trọng điểm thuộc ngân sách nhà nước có qui mô lớn thì hầu hết đều do các Doanh nghiệp ngoài tỉnh thi công. Do vậy, đề nghị Lãnh đạo các cấp, các ngành có kế hoạch cụ thể, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, để các Doanh nghiệp xây dựng trong tỉnh được thi công nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành xây dựng của Tỉnh tăng cao.
Diện tích lúa hè thu đã xuống giống được 77.075 ha, đạt 103,58% so với kế hoạch tỉnh và bằng 100,11% so với kỳ năm trước. Hiện nay, lúa hè thu đã thu hoạch xong, năng suất thu hoạch ước được 60,11 tạ/ha, giảm 0,09% (bằng 0,05 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng lúa hè thu năm nay ước được 463.284 tấn, tăng 0,1% (bằng 69 tấn) so với cùng kỳ.
Lúa thu đông tính đến thời điểm hiện nay, toàn tỉnh đã xuống giống được 42.079 ha, lúa đang ở giai đoạn mạ đến làm đòng. Tập trung chủ yếu ở các huyện trong tỉnh (ngoại trừ huyện Châu Thành). Năm nay, do mưa nhiều và kéo dài làm nước dâng cao dẫn đến ngập úng làm cho 1.141 ha lúa đã gieo trồng của huyện Vị Thủy bị hư hỏng toàn bộ.
Đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh đã xuống giống ước được 2.175 ha ngô, so cùng kỳ năm trước giảm 10,53% (bằng 256 ha). Do thời tiết mưa nhiều, nông dân xuống giống trễ hơn so cùng kỳ năm trước.
Cây mía đã xuống giống được 10.582 ha, giảm 3,1% (bằng 339 ha) so với cùng kỳ. Mía trồng tập trung ở huyện Phụng Hiệp, Long Mỹ, Thành phố Vị Thanh và Thị xã Ngã Bảy, hiện mía đang cho thu hoạch.
Bà con nông dân đang tích cực chú ý các đối tượng gây hại lúa thu đông như: Ốc bươu vàng, rầy nâu, sâu cuốn lá, bạc lá và bệnh vàng lùn - lùn xoắn lá. Nhìn chung, tình hình dịch bệnh đang được ngăn chặn kịp thời.
Từ đầu năm đến nay, các dịch bệnh trên gia súc gia cầm chưa xảy ra trong địa bàn tỉnh. Ngành thú y tiếp tục duy trì công tác tiêm phòng dịch bệnh ở đàn gia súc và dịch cúm trên gia cầm; tăng cường công tác kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật, kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y đảm bảo an toàn thực phẩm. Trong tháng 9, số đầu con gia súc, gia cầm cụ thể như sau: Đàn lợn (heo) có 143.175 con, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,49% (bằng 4.824 con). Đàn gia cầm có 3.362 ngàn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,65% (bằng 54 ngàn con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng đầu năm, thịt lợn được 21.758 tấn, so với cùng kỳ tăng 1,88% (bằng 402 tấn), thịt gia cầm được 6.706 tấn, tăng 1,27% (bằng 84 tấn).
Về hoạt động lâm nghiệp, lũy kế từ đầu năm đến nay, sản lượng gỗ khai thác được 9.785 m3, so với cùng kỳ giảm 2,05% (bằng 205 m3) và sản lượng củi khai thác được 76.198 ste, so với cùng kỳ giảm 4,3% (bằng 3.427 ste).
Diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh 9 tháng đầu năm, ước tính được 6.039 ha, tăng 0,52% (bằng 31 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng là do diện tích nuôi các loại cá khác ở ruộng (các loại cá trắng) tăng. Nguyên nhân là do lượng mưa năm nay khá nên nước tự nhiên vào ruộng cao hơn năm trước thuận lợi cho việc nuôi loại cá này.
Tổng sản lượng thủy sản 9 tháng đầu năm, toàn tỉnh ước được 52.172 tấn, tăng 1,48% (bằng 762 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng được 49.850 tấn, tăng 1,6% (bằng 783 tấn). Sản lượng thuỷ sản thu hoạch tăng so với cùng kỳ là do cá nuôi trên ruộng tăng và giá bán cao hơn năm trước nên tác động sự tập trung đầu tư của hộ nuôi thủy sản.
Nhìn chung, tình hình sản xuất nông nghiệp trong 9 tháng đầu năm thuận lợi hơn so với cùng kỳ năm trước do lúa hè thu năng suất giảm ít nhưng diện tích tăng hơn nên sản lượng lúa tăng. Ngành thú y thực hiện tốt công tác tiêm phòng, quản lý, giám sát dịch bệnh, dịch cúm gia cầm không để xảy ra trên địa bàn tỉnh. Ngành lâm nghiệp tương đối ổn định, đặc biệt là đảm bảo tốt công tác phòng cháy chữa cháy rừng, không xảy ra vụ cháy rừng nào trên địa bàn tỉnh. Những tháng cuối năm dự báo ngành nông nghiệp sẽ gặp một số khó khăn như: Lúa vụ thu đông không xuống giống được thêm, không đạt được kế hoạch xuống giống của tỉnh do mưa nhiều ảnh hưởng đến ngập úng, một số diện tích gieo sạ đã bị mất trắng.
Việc tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) sẽ giúp hàng hóa Hậu Giang xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn như: Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico cũng như thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào các ngành, lĩnh vực mà tỉnh đang có nhu cầu phát triển, đây sẽ là cơ hội để Hậu Giang tạo môi trường đầu tư - kinh doanh thông thoáng, minh bạch, góp phần cho ngành công nghiệp phát triển bền vững trong thời gian tới.
Giá trị sản xuất công nghiệp tính theo giá so sánh 2010, thực hiện tháng 8 được 2.265.775 triệu đồng, tăng 13,17% so với cùng kỳ năm trước. Theo giá thực tế được 3.096.408 triệu đồng, tăng 17,84% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do Công ty Cổ phần thủy sản Minh Phú Hậu Giang với sản phẩm chính là tôm đông lạnh, trong thời gian vừa qua doanh nghiệp này đã cải tiến máy móc, thiết bị và thực hiên tốt các yêu cầu của đối tác khi chế biến như; ghi nhật ký nuôi trồng thủy sản, nhật ký chế biến, nhập kho, xuất kho theo quy định của Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) nên sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp đáp ứng được các rào cản chất lượng khắc khe ở các nước nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp đã nhận được nhiều đơn đặt hàng từ những thị trường lớn như; Mỹ, EU, Nhật Bản nên giá trị sản xuất của ngành này tăng so với cùng kỳ.
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện tháng 9 tính theo giá so sánh 2010, được 2.333.780 triệu đồng, tăng 3,01% so với tháng trước và tăng 19,39% so với cùng kỳ năm trước. Tính theo giá thực tế được 3.236.056 triệu đồng, tăng 4,51% so với tháng trước và tăng 21,83% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do các doanh nghiệp hoạt động ổn định, mặc dù tình hình tiêu thụ vẫn chưa hết khó khăn nhưng các doanh nghiệp vẫn duy trì ổn định giá trị sản xuất. Ngoài ra, tăng một phần là do chính sách nhà nước khuyến khích “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất các mặc hàng tiêu thụ nội địa, tăng sản lượng để phục vụ tiêu dùng trong nước dịp Tết trung thu sắp đến.
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện 9 tháng đầu năm tính theo giá so sánh 2010, được 18.320.253 triệu đồng, tăng 14,31% so với cùng kỳ năm trước và đạt 81,84% so với kế hoạch năm. Tính theo giá thực tế được 25.162.934 triệu đồng, tăng 16,42% so với cùng kỳ năm trước và đạt 82,91% so với kế hoạch năm.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 200 doanh nghiệp và hơn 4.644 cơ sở cá thể hoạt động sản xuất công nghiệp, những ngành chiếm tỷ trong lớn và có tốc độ tăng cao so với mức tăng chung của tỉnh như: Sản xuất chế biến thực phẩm (chiếm 46,35% và tăng 6,59%); sản xuất đồ uống (chiếm tỷ trọng 2,56% và tăng 46,61% so với cùng kỳ); sản xuất giấy và các sản phẩm bằng giấy (chiếm tỷ trọng 16,91% và tăng 39,14% so với cùng kỳ); sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất (chiếm tỷ trọng 8,83% và tăng 45,86% so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do các doanh nghiệp có giá trị sản xuất lớn sau thời gian đầu tư hoàn thành đi vào hoạt động ổn định và các doanh nghiệp đang hoạt hoạt động có hiệu quả đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, mở rộng nhà máy đa dạng hóa sản phẩm như: Công ty TNHH giấy Lee & Man Việt Nam; Công ty TNHH MTV Xi măng Cần Thơ - Hậu Giang; công ty TNHH Lạc Tỷ II; công ty TNHH Masan HG… các doanh nghiệp trên đã đóng góp trên 8.782 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm vào các ngành này nói riêng và giá trị sản xuất của toàn tỉnh nói chung.
Nhìn chung 9 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển tương đối đồng đều và ổn định. Tuy nhiên, dù đã có sự tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về giá, thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, xăng dầu,... Do vậy, các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững.
Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) ước tính tháng 9 tăng 9,67% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,81%. Trong đó, ngành sản xuất đồ uống tăng 106,28% so cùng kỳ năm trước, ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 85,93%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí tăng 8,73% so cùng kỳ năm trước; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,66% so cùng kỳ năm trước.
Trong quý III, chỉ số phát triển công nghiệp tăng 10,95% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,12%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí tăng 8,21%. Trong nhóm ngành công nghiệp thì ngành sản xuất đồ uống tăng 112,06% so cùng kỳ và là ngành tăng cao nhất trong nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo.
So với 9 tháng đầu năm 2017, chỉ số IIP 9 tháng đầu năm 2018 tăng 14,66%. Là do ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 14,93%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí tăng 8,63%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,47%.
5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ
Mặc dù vào đầu tháng 8, thời tiết mưa nhiều không thuận lợi kinh doanh, mua bán nhưng thị trường hàng hóa trên địa bàn tỉnh tăng so với tháng trước do đây là thời điểm bước vào đầu năm học mới, nhu cầu sử dụng các nhóm hàng phục vụ cho năm học mới tăng cao như: Vật phẩm văn hóa, giáo dục, hàng may mặc,… Ngoài ra, giá cả một số loại thực phẩm đang tăng như: Giá thịt heo, giá gia cầm và trứng làm cho nhóm hàng lương thực, thực phẩm trong tháng và một số nhóm hàng khác cũng tăng. Các ngành dịch vụ trong tháng có tăng so với tháng trước, chủ yếu là ngành dịch vụ ăn uống. Vì vậy, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong tháng 8 tăng so với tháng trước.
Thực hiện tháng 8, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 2.785.291 triệu đồng, so với thực hiện tháng trước bằng 104,47% và so với cùng kỳ năm trước bằng 107,79%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa thực hiện được 2.060.730 triệu đồng, so với tháng trước bằng 105,27% và so với cùng kỳ năm trước bằng 107,07%. Ngành dịch vụ (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 256.505 triệu đồng, so với tháng trước bằng 100,85% và so với cùng kỳ năm trước bằng 108,53%. Ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 468.056 triệu đồng, so với tháng trước bằng 103,05% và so với cùng kỳ năm trước bằng 110,62%.
Ước thực hiện tháng 9, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 2.939.353 triệu đồng, so với thực hiện tháng trước bằng 105,53% và so với cùng kỳ năm trước bằng 108,51%.
Ước thực hiện tháng 9, thị trường hàng hóa trên địa bàn tỉnh tăng so với tháng trước do nhu cầu hàng hóa phục vụ cho năm học mới tiếp tục tăng cao và lượng hàng phục vụ cho kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2/9. Bên cạnh đó, các mặt hàng phục vụ Tết Trung thu như: Bánh trung thu, lồng đèn và một số hàng hóa khác đã được bày bán trên các tuyến đường và hầu hết trong các chợ. Ngoài ra, để kích thích nhu cầu tiêu dùng với phương châm đưa hàng Việt về nông thôn luôn được quan tâm và đẩy mạnh thực hiện, vừa qua hội chợ thương mại được tổ chức tại thành phố Vị Thanh đã kích thích tiêu dùng rất lớn trong tháng. Điều này đã kéo theo các ngành dịch vụ trên địa bàn tỉnh cũng sẽ tăng hơn so với tháng trước.
Ước thực hiện Quý III, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 8.390.817 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,87%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa thực hiện được 6.205.241 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,82%. Ngành dịch vụ (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 775.630 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 102,19%. Ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 1.409.946 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 109,84%. Thị trường hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tỉnh tăng so với cùng kỳ 6,87%. Trong đó, ngành thương mại tăng khá, các nhóm ngành tăng cao như: Lương thực, thực phẩm, gỗ, vật liệu xây dựng, xăng dầu và một số hàng hóa khác do ảnh hưởng của giá cả hàng hóa so cùng kỳ tăng, nhất là nhóm lương thực, thực phẩm, xăng, dầu, gas… Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ đầu tư mở rộng thị trường vào địa bàn tỉnh Hậu Giang tăng, nhu cầu của người dân tăng do mức sống ngày càng được nâng cao.
Ước thực hiện 9 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 26.168.245 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,79% và so với kế hoạch năm đạt 74,29%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa thực hiện được 19.249.616 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,95%. Ngành dịch vụ (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 2.515.750 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 109,25%. Ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 4.402.879 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,75%.
Các ngành dịch vụ, chủ yếu ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng khá cao (tăng 9,84%). Nguyên nhân là do các cơ sở kinh doanh mở rộng quy mô hoạt động, việc cơ quan chức năng thường xuyên tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm tra xử lý cơ sở sai phạm khá nghiêm túc nên tạo sự an tâm đối với người tiêu dùng, kích thích tiêu dùng trong ngành dịch vụ này. Riêng ngành dịch vụ khác có mức tăng khá thấp 2,19% là do cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu vui chơi chưa được cải tạo, nâng cấp, và xây dựng mới, chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Một số nhóm ngành dịch vụ còn có xu hướng giảm như: Nhóm ngành dịch vụ hành chính và hỗ trợ, nhóm dịch vụ sửa chữa đồ dùng cá nhân và gia đình, do các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này có quy mô nhỏ, số lượng ít, hoạt động không hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường người tiêu dùng.
5.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện tháng 8 được 89,705 triệu USD, so với tháng trước bằng 106,46% và so với cùng kỳ năm trước bằng 84,52%. Xuất khẩu được 70,349 triệu USD, so với thực hiện tháng trước bằng 104,88% và so với cùng kỳ năm trước bằng 101,15%. Nguyên nhân giá trị xuất khẩu hàng hóa trực tiếp tăng so với tháng trước là do giá trị xuất khẩu các sản phẩm Tôm chế biến các loại tăng (chiếm 64,82% trong tổng giá trị xuất khẩu chung), bằng 114,73% so với tháng trước. Các mặt hàng xuất khẩu khác còn lại vẫn có giá trị ổn định so với tháng trước. Nhập khẩu được 19,356 triệu USD, so với thực hiện tháng trước bằng 112,64% và so với cùng kỳ năm trước bằng 52,90%.
Ước thực hiện tháng 9, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 89,822 triệu USD, so với tháng trước bằng 100,13% và so với cùng kỳ năm trước bằng 94,57%. Xuất khẩu ước thực hiện được 71,167 triệu USD so với thực hiện tháng trước bằng 101,16% và so với cùng kỳ năm trước bằng 108,80%. Nguyên nhân ước giá trị xuất khẩu tăng so với tháng trước là do hiện nay các ngành chức năng đang siết chặt và ban hành một số quy định mới trong việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trong các sản phẩm chế biến xuất khẩu, mục đích là nhằm tăng cường nâng cao chất lượng, đưa sản phẩm thủy sản nói chung và các sản phẩm chế biến xuất khẩu chủ lực khác của Việt Nam dễ dàng xuất khẩu sang các thị trường truyền thống và các thị trường tiềm năng khác trên thế giới. Vì vậy, dự đoán trong tháng tới giá trị xuất khẩu sẽ tăng và mặt hàng có khả năng tăng nhiều có thể là Tôm chế biến các loại. Nhập khẩu ước thực hiện được 18,655 triệu USD so với tháng trước bằng 96,38% và so với cùng kỳ năm trước bằng 63,09%.
Ước thực hiện 9 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 768,792 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 101,13% và so với kế hoạch năm đạt 72,53%. Xuất khẩu ước thực hiện được 527,296 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,78% và so với kế hoạch năm đạt 73,64%. Nhập khẩu ước thực hiện được 196,881 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 83,12% và so với kế hoạch năm đạt 72,92%.
Hiện nay, tình hình thời tiết diễn biến phức tạp do mưa bão nhiều cũng đã phần nào gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và các rào cản thương mại được các nước nhập khẩu dựng lên cũng gây ra nhiều khó khăn. Do đó, trong thời gian tới, các ngành chức năng cần tăng cường công tác kiểm tra chặt chẽ vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nguồn nguyên liệu đầu vào và những sản phẩm chế biến xuất khẩu, đảm bảo các sản phẩm đủ tiêu chuẩn theo yêu cầu của những thị trường có mức tiêu thụ lớn nhưng rất khó tính là Mỹ, Nhật và các nước EU. Thêm vào đó, cũng cần hỗ trợ các Doanh nghiệp trong việc nắm bắt kịp thời thông tin diễn biến của thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường tuyên truyền quảng bá hình ảnh chất lượng của sản phẩm đến với người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu để kích thích nhu cầu tiêu thụ, xây dựng hình ảnh sản phẩm chất lượng ngày càng tốt hơn đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế từ đó thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm có thế mạnh về xuất khẩu của Việt Nam mở rộng được thị trường, xuất sang được nhiều nước khác hơn nữa trong khu vực và trên thế giới, góp phần lớn làm gia tăng giá trị xuất khẩu chung.
5.3. Tình hình giao thông vận tải
Tổng doanh thu đường bộ, đường sông và kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện tháng 8 được 80.085 triệu đồng, so với tháng trước bằng 94,72% và so với cùng kỳ năm trước bằng 90,10%. Trong đó, đường bộ thực hiện được 45.725 triệu đồng, so với tháng trước bằng 92,26% và so với cùng kỳ năm trước bằng 100,24%. Đường sông được 34.360 triệu đồng, so với tháng trước bằng 98,21% và so với cựng kỳ năm trước bằng 79,41%.
Ước thực hiện quý III, tổng doanh thu đường bộ, đường sông và kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 247.099 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 108,60%. Trong đó, đường bộ được 146.322 triệu đồng, bằng 119,73% so với cùng kỳ năm trước. Đường sông được 105.934 triệu đồng, bằng 91,62% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 9 tháng đầu năm, tổng doanh thu đường bộ, đường sông và kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 847.009 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 104,28%. Trong đó, đường bộ được 481.021 triệu đồng, bằng 115,93% so với cùng kỳ năm trước. Đường sông được 365.988 triệu đồng, bằng 92,11% so với cùng kỳ năm trước.
Thực hiện tháng 8, hàng hoá vận chuyển được 609.081 tấn (26.779.890 tấn.km), so với thực hiện tháng trước bằng 92,52% (89,45%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 75,26% (73,40%). Đường bộ thực hiện được 200.201 tấn (11.126.690 tấn.km), so với thực hiện tháng trước bằng 89,63% (86,34%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 90,72% (82,46%). Đường sông thực hiện được 408.880 tấn (15.653.201 tấn.km), so với thực hiện tháng trước bằng 94,01% (91,80%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 69,46% (68,07%).
Ước thực hiện tháng 9, toàn tỉnh vận chuyển được 615.160 tấn hàng hóa các loại (26.242.880 tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,01% (97,99%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 77,15% (80,32%). Đường bộ thực hiện được 190.860 tấn hàng hóa (10.093.570 tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 95,33% (90,71%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 97,5% (94,91%). Đường sông thực hiện được 424.300 tấn hàng hóa (16.149.310 tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,77% (103,17%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 70,51% (73,28%).
Ước thực hiện quý III, toàn tỉnh vận chuyển được 1.882.579 tấn hàng hóa (82.960.464 tấn.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 100,93% (107,67%). Đường bộ ước thực hiện được 31.268.127 tấn hàng hóa (48.853.740 tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 91,10% (80,25%). Đường sông ước thực hiện được 614.452 tấn hàng hóa (34.106.724 tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 129,88% (210,85%).
Ước thực hiện 9 tháng đầu năm, toàn tỉnh vận chuyển được 7.348.309 tấn hàng hóa (324.283.755 tấn.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 104,44% (120,96%). Đường bộ ước thực hiện được 2.655.072 tấn hàng hóa (163.143.154 tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 138,39% (240,16%). Đường sông ước thực hiện được 4.693.237 tấn hàng hóa (161.140.601 tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 91,72% (80,51%).
Thực hiện tháng 8, toàn Tỉnh vận chuyển được 8.932.040 lượt hành khách (56.260.180 HK.Km), so với thực hiện tháng trước bằng 98,47% (95,74%) và so với cùng kỳ năm trước bằng bằng 101,33% (102,86%). Đường bộ vận chuyển được 7.494.930 lượt hành khách (43.580.080 HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 96,11% (93,35%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 99,55% (99,25%). Đường sông vận chuyển được 1.437.110 lượt hành khách (12.680.100 HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 112,98% (104,99%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 111,76% (111,56%).
Ước thực hiện tháng 9, toàn tỉnh thực hiện được 8.700.010 lượt hành khách (56.821.930 HK.km), so với tháng trước bằng 97,40% (101,01%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 98,36% (101,85%). Đường bộ vận chuyển được 7.176.770 lượt hành khách (43.511.300 HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 95,75% (99,84%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 95,89% (98,99%). Đường sông vận chuyển được 1.523.240 lượt hành khách (13.310.630 HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 105,99% (104,97%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 111,96% (112,47%).
Ước thực hiện quý III, toàn tỉnh vận chuyển được 26.702.592 lượt hành khách (171.843.423 HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 103,64% (106,34%). Đường bộ ước thực hiện được 22.470.231 lượt hành khách (133.775.068 HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 102,79% (103,94%). Đường sông ước thực hiện được 4.232.361 lượt hành khách (38.068.355 HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 108,39% (115,72%).
Ước thực hiện 9 tháng đầu năm, toàn tỉnh vận chuyển được 83.734.072 lượt hành khách (519.370.493 HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 103,00% (105,21%). Đường bộ ước thực hiện được 70.670.411 lượt hành khách (404.118.358 HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 102,04% (102,55%). Đường sông ước thực hiện được 13.063.661 lượt hành khách (115.252.135 HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 108,54% (115,74%).
6.1. Tình hình thực hiện văn hóa
Trong tháng 9, ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch phối hợp với Công an tỉnh và Liên đoàn Quần vợt tỉnh chuẩn bị công tác tổ chức giải Quần vợt kỷ niệm 73 năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Hoàn chỉnh dự thảo Kế hoạch tổ chức giải Marathon quốc tế “Mekong Delta Marathon” tỉnh Hậu Giang năm 2018. Phối hợp với các đơn vị có liên quan hỗ trợ giải xe đạp đồng bằng sông Cửu Long lần thứ 27 năm 2018 tranh cúp Gạo Hạt Ngọc Trời (chặng 7, ngày 17/8/2018) qua địa phận tỉnh Hậu Giang được an toàn và đạt yêu cầu chuyên môn.
Ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã thực hiện được 579 m2 panô các loại, 125 băng rol, treo và tháo gỡ 4.550 cờ các loại, 78 lượt phóng thanh cổ động, trang trí khánh tiết, phục vụ âm thanh ánh sáng, hỗ trợ chương trình văn nghệ cho các cuộc hội nghị, họp mặt, hội thi, hội diễn, liên hoan, hội chợ theo yêu cầu của các đơn vị ngoài ngành.Thực hiện công tác trang trí cổ động trực quan, pano, băng gol, cờ chào mừng kỷ niệm 73 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Lễ dâng hương viếng Bác tại đền thờ Bác Hồ, xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ. Đội tuyên truyền lưu động tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố tổ chức giao lưu trong và ngoài tỉnh 06 cuộc; xây dựng chương trình nghệ thuật quần chúng biểu diễn tại các xã, phường, thị trấn với 89 buổi, thu hút 43.000 lượt người xem. Đoàn Ca múa nhạc dân tộc tỉnh đã xây dựng và biểu diễn văn nghệ phục vụ kỷ niệm 73 năm lễ Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2018); Hỗ trợ đoàn Ca múa nhạc tổng hợp An Giang tham gia liên hoan ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc năm 2018 tại thành phố Đà Nẵng với 08 suất diễn phục vụ trên 4.800 lượt người xem.
Triển lãm sách kỷ niệm 73 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 gồm 550 quyển sách về các chuyên đề: Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Tư tưởng Hồ Chí Minh, sách mới, sách địa chí và sách thiếu nhi, lồng ghép tổ chức các trò chơi trí tuệ về sách cho 200 học sinh tham gia và trao 33 phần quà cho các em tham gia đạt kết quả cao. Trưng bày sách tại chỗ 3 lần trên 110 quyển, bao gồm: Kỷ niệm Ngày Nam bộ kháng chiến 23/9, sách chuyên đề an toàn giao thông, sách chuyên đề cải cách hành chính và sách mới các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, pháp luật...
6.2. Tình hình thực hiện giải quyết việc làm và đào tạo nghề
Trong nền kinh tế thị trường, tốc độ phát triển kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó lao động - việc làm được xem là một trong các yếu tố quyết định chính và trực tiếp nhất. Lao động dồi dào và có tay nghề cao, trẻ tuổi... thường thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có việc làm tốt, ổn định và có thu nhập. Tỉnh Hậu Giang là một tỉnh nông nghiệp, nguồn lao động trẻ, dồi dào nhưng chưa được đào tạo đúng mức, tay nghề thấp chiếm tỷ lệ lớn nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội, người lao động gặp không ít khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi vẫn còn tương đối cao (Nguồn niên giám Thống kê tỉnh Hậu Giang năm 2017 là 2,70%).
Vì vậy, giải quyết việc làm là một trong những vấn đề bức xúc của tỉnh nói riêng cũng như của cả nước nói chung. Thời gian qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã ban hành các chủ trương, chính sách cụ thể, thiết thực, phù hợp nhằm khuyến khích, kêu gọi sự đầu tư của doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, kể cả doanh nghiệp nước ngoài xây dựng các cơ sở mới, quy mô hiện đại hơn, việc quy hoạch các khu, cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp được tỉnh rất chú trọng, đến nay các khu, cụm công nghiệp như: Khu công nghiệp tập trung Nam sông Hậu (huyện Châu Thành), cụm công nghiệp tập trung Tân Phú Thạnh (huyện Châu Thành A), cụm công nghiêp tập trung Vị Thanh (thành phố Vị Thanh), các khu, cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ở các huyện thị đã và đang tiếp tục được xây dựng. Do đó, phần nào giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động trong thời gian qua, đồng thời làm tăng thu nhập ổn định cuộc sống của người dân.
Năm 2018, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trưởng, chính sách giải quyết việc làm cho người lao động, ngành Lao động - thương binh và xã hội phối hợp với các ngành có liên quan, thông qua các Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tư vấn giới thiệu việc làm, tạo việc làm trong và ngoài tỉnh. Ước 9 tháng đầu năm, Hậu Giang giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 13.168 lao động, đạt 87,80% kế hoạch năm, tăng 6,60% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, đã đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là 76 lao động.
Ngoài ra, trong 9 tháng đầu năm, Hậu Giang còn tiếp nhận và ký kết thỏa thuận hợp đồng cung ứng lao động khoảng 116 lượt doanh nghiệp, với số lao động đề nghị cung ứng là 14.307 lao động. Đó dà dấu hiệu đáng mừng cho người lao động chưa có việc làm.
6.3. Tình hình thực hiện an sinh xã hội và chính sách người có công
Theo báo cáo 9 tháng đầu năm của Sở Lao động – thương binh và xã hội, tỉnh đã cấp mới 170.529 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn và người sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn với số tiền trên 92 tỷ đồng.
Bằng nhiều biện pháp hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất như hỗ trợ vốn và các chương trình lồng ghép khác của dự án xóa đói giảm nghèo, sự nỗ lực vươn lên từ các hộ nghèo, đến nay số hộ nghèo đã giảm đáng kể. Tổng hợp sơ bộ kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2017 theo chuẩn tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, toàn tỉnh có 19.288 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 9,63%, giảm 2,92% so với năm 2016. Hộ cận nghèo là 11.862 hộ, chiếm tỷ lệ 5,94% tăng 0,66% so với năm 2016. Kết quả này là cơ sở để nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách hỗ trợ giảm nghèo bền vững. Đồng thời, xúc tiến xây dựng kế hoạch về các dự án, chính sách giảm nghèo giai đoạn 2016-2020.
Trong 9 tháng đầu năm, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã tổ chức thăm hỏi, tặng 55.635 phần quà cho các gia đình chính sách, người có công trên địa bàn tỉnh với số tiền 24,5 tỷ đồng. Trong đó, nhân dịp kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2018) toàn tỉnh đã tổ chức thăm và tặng 20.660 phần quà cho người có công với cách mạng với số tiền gần 9,5 tỷ đồng.
Triển khai kế hoạch xây dựng mới và sửa chữa 3.822 căn nhà tình nghĩa cho người có công với cách mạng gặp khó khăn về nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ (trong đó xây dựng mới: 1.685 căn, sửa chữa: 2.137 căn).
Tổ chức Lễ truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà Mẹ Việt Nam anh hùng (đợt 8) cho 20 trường hợp. Phục vụ Lễ viếng nghĩa trang liệt sĩ tỉnh nhân kỷ niệm 43 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2018)...
Những đóng góp, hỗ trợ tuy không nhiều nhưng đã thể hiện được sự quan tâm của các cấp, các ngành đối với người có công, giúp xoa dịu nỗi đau, khích lệ tinh thần và ổn định cuộc sống.
6.4. Tình hình thực hiện y tế và giáo dục
Theo báo cáo của Sở y tế trong tháng 9 có 33 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, tăng 07 ca so với tháng trước. Cộng dồn 9 tháng có 144 ca mắc bệnh, giảm 135 ca so với cùng kỳ. Bệnh tay chân miệng có 48 ca mắc mới, tăng 20 ca so với tháng trước. Cộng dồn có 230 ca mắc bệnh , giảm 196 ca so với cùng kỳ. Bệnh viêm gang do virut B có 03 ca mắc mới, tăng 03 ca so với tháng trước. Bệnh dịch lạ chưa phát hiện ra trên địa bàn tỉnh. Nhờ sự phát hiện sớm và điều trị kịp thời nên không có ca tử vong do các bệnh truyền nhiễm. Chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 1.012 trẻ, cộng dồn được 8.956 trẻ, đạt 76,04%.
Tiếp tục triển khai kế hoạch thực hiện công tác cải tiến chất lượng bệnh viện theo quy định của Bộ Y tế; đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh tại các cơ sở y tế có giường bệnh trực thuộc. Hiện tại có 76 trên76 Trạm y tế đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã (Trạm y tế Xã Long Bình, thị xã Long Mỹ đang trình Hội đồng cấp tỉnh ra quyết định công nhận).
Tất cả các cơ sở y tế đã đưa phần mềm quản lý khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế (BHYT). Bước đầu đã đạt được những thuận lợi như thống kê số liệu chính xác hơn; dễ dàng, nhanh chóng trong việc tổng hợp số liệu; tạo ra sự nhất quán giữa các cơ sở y tế trong việc thống kê báo cáo số liệu. Quản lý tốt thông tin bệnh nhân đồng thời báo cáo số liệu về Sở Y tế, Bộ Y tế cũng như thanh quyết toán với BHYT kịp thời và chính xác hơn.
Trong quý III, hoạt động ngành học mầm non đã kiểm tra công nhận trường mầm non, mẫu giáo đăng ký đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn lên 56 trên 85 trường, đạt tỷ lệ 65,88%; tổ chức kiểm tra quản lý và tổ chức hoạt động của các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập tại đơn vị huyện, thị xã, thành phố; tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ giáo dục mầm non năm học 2018-2019 và sơ kết 02 năm triển khai thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”. Sở giáo dục và đào tạo đã thành lập các đoàn kiểm tra công nhận trường đạt chuẩn quốc gia cấp tiểu học nâng số trường đạt chuẩn lên 89 trường, đạt tỷ lệ 53.29%. Tổ chức Hội nghị tổng kết năm học 2017-2018 và triển khai phương hướng nhiệm vụ năm học 2018-2019 cấp tiểu học, thực hiện tinh thần Nghị quyết 19-NQ/TW hiện tại ngành học tiểu học có 167 trường giảm 03 trường so với cùng kỳ.
6.5. Tình hình thiên tai
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra các đợt mưa giông làm sập 75 căn nhà và tốc mái 112 căn nhà, 01 người chết, ước thiệt hại trên 2.336 triệu đồng; sạt lở 364m chiều dài bờ sông, diện tích mất đất khoảng 2.253 m2, ước thiệt hại 1.571 triệu đồng. UBND huyện, thị xã, thành phố đã hỗ trợ kịp thời, đồng thời đã chỉ đạo các bộ phận chuyên môn theo dõi thời tiết bất thường để khuyến cáo người dân khi có thiên tai xuất hiện.
6.6. Tình hình thực hiện an toàn giao thông, cháy nổ
Tình hình thực hiện an toàn giao thông
Theo số liệu của Ban an toàn giao thông tỉnh Hậu Giang, trong tháng 9, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông, tập trung ở đường bộ. So với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước giảm 03 vụ. Trong đó, có tổng số 03 người chết, so với tháng trước giảm 03 người và giảm 02 người so với cùng kỳ năm trước. Tổng số có 02 người bị thương, so với tháng trước giảm 02 người và so với cùng kỳ năm trước giảm 01 người.
Trong 9 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 83 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 81 vụ, đường sông 02 vụ), làm chết 73 người và bị thương 36 người tập trung ở đường bộ. So với cùng kỳ năm trước, giảm 02 vụ (đường bộ giảm 04 vụ, đường sông tăng 02 vụ), số người chết tăng 14 người và số người bị thương giảm 03 người (chỉ tập trung ở đường bộ).
Tình hình thực hiện an toàn cháy nổ
Trong 9 tháng đầu, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 03 vụ cháy, làm thiệt tài sản ước tính khoản 350 triệu đồng, không có thiệt hại về người. Nguyên nhân do thời tiết nắng hạn nhiều đầu năm nên dễ sảy ra cháy nổ đặt biệt là ở những khu đông dân cư và ở chợ, vì vậy cần tăng cường những biện pháp phòng chống cháy nổ./.
CỤC THỐNG KÊ TỈNH HẬU GIANG
Địa chỉ: Số 05 Đường Điện Biên Phủ, Phường 5, TP. Vị Thanh, Hậu Giang,
Trưởng Ban Biên Tập: Thiều Vĩnh An, Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang
Điện thoại: 0293.3878991 - Fax: 0293.3878991 - Email: Haugiang@gso.gov.vn
© 2018 Thiết kế bởi: Trung tâm CNTT-TT Hậu Giang