BÁO CÁO
Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Hậu Giang tháng 4 năm 2020
Trong tháng, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục chịu sự ảnh hưởng của dịch COVID-19. Để phòng, chống dịch bệnh và tránh lây lan ra cộng đồng, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2020 về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19, thực hiện theo Chỉ thị tiến hành cách ly toàn xã hội trong vòng 15 ngày, bắt đầu từ 0 giờ ngày 01/4/2020. Tỉnh Hậu Giang đã thực hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, tiến hành cách ly theo đúng quy định, mặc dù đã ngăn chặn được dịch bệnh xuất hiện trên địa bàn tỉnh nhưng đã làm cho hoạt động kinh tế của tỉnh giảm đáng kể so với tháng trước và cùng kỳ năm trước. Kết quả cụ thể từng ngành, từng lĩnh vực như sau:
1. Tài chính, tín dụng
1.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 4 được 590,806 tỷ đồng, luỹ kế được 4.183,662 tỷ đồng, đạt 54,35% dự toán Trung ương, đạt 54,35% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.Trong đó, Trung ương trợ cấp được 320,473 tỷ đồng, luỹ kế được 1.420,809 tỷ đồng, đạt 35,02% dự toán Trung ương giao, đạt 35,02% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Thu nội địa được 237 tỷ đồng, luỹ kế được 1.378,062 tỷ đồng, đạt 37,85% dự toán Trung ương và dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 4 được 716,508 tỷ đồng, luỹ kế được 2.918,755 tỷ đồng, đạt 42,59% dự toán Trung ương giao, đạt 42,59% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Chia ra: Chi xây dựng cơ bản được 356,716 tỷ đồng, luỹ kế được 1.438,755 tỷ đồng, đạt 56,08% dự toán Trung ương giao, đạt 56,08% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Chi thường xuyên được 359,792 tỷ đồng, luỹ kế được 1.451,760 tỷ đồng, đạt 34,76% dự toán Trung ương, đạt 34,76% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
1.2 Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 31 tháng 3, tổng vốn huy động toàn địa bàn được 14.575 tỷ đồng, tăng trưởng 2,31% so với cuối tháng trước, tương ứng tăng trưởng 1,31% so với cuối năm 2019. Trong tổng vốn huy động trên địa bàn thì khối Ngân hàng thương mại nhà nước huy động được 9.602 tỷ đồng (chiếm 65,88%); khối Ngân hàng thương mại cổ phần được 4.375 tỷ đồng (chiếm 30,02%); Ngân hàng Chính sách xã hội được 556 tỷ đồng (chiếm 3,81%) và Quỹ tín dụng Nhân dân được 42 tỷ đồng (chiếm 0,29%). Vốn huy động đáp ứng được 60,72% cho hoạt động tín dụng. Ước thực hiện đến cuối tháng 4, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn được 14.754 tỷ đồng, tăng trưởng 1,23% so với cuối tháng 3, tương ứng tăng trưởng 2,56% so với cuối năm 2019.
Đến ngày 31 tháng 3, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn được 24.002 tỷ đồng, tăng trưởng 0,71% so với cuối tháng trước, tương ứng tăng trưởng 2,61% so với cuối năm 2019. Trong tổng dư nợ thì khối Ngân hàng thương mại nhà nước được 16.857 tỷ đồng (chiếm 70,24%); khối Ngân hàng thương mại cổ phần được 4.654 tỷ đồng (chiếm 19,39%); Ngân hàng Chính sách xã hội được 2.447 tỷ đồng (chiếm 10,19%) và Quỹ tín dụng Nhân dân được 44 tỷ đồng (chiếm 0,18%). Ước thực hiện đến cuối tháng 4, dư nợ được 24.141 tỷ đồng, tăng trưởng 0,58% so với cuối tháng 3, tương ứng tăng trưởng 3,21% so với cuối năm 2019.
Nợ quá hạn đến ngày 31 tháng 3 là 692 tỷ đồng, chiếm 2,88% trên tổng dư nợ; nợ xấu là 409 tỷ đồng, chiếm 1,70% trên tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 283 tỷ đồng, chiếm 40,90% trên tổng nợ quá hạn. Dự báo đến cuối tháng 4, nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra.
2. Vốn đầu tư
Tính đến ngày 16 tháng 4, kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2020 là 20.263,466 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 2.131,466 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn: 2.150 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là: 15.982 tỷ đồng.
Ước tính vốn đầu tư thực hiện được trong tháng 4 là 1.712,350 tỷ đồng, bằng 105,89% so với cùng kỳ năm trước và bằng 104,80% so với tháng trước. Nguyên nhân vốn đầu tư thực hiện tăng so với tháng trước do đây là tháng cao điểm thực hiện chiến dịch giao thông nông thôn và thủy lợi mùa khô năm 2020; Chủ đầu tư tăng cường đôn đốc nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công, triển khai thực hiện dự án, phối hợp các ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác đấu thầu, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Ước tính 4 tháng, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 6.390,950 tỷ đồng, bằng 104,90% so với cùng kỳ năm trước và đạt 31,54% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 590,660 tỷ đồng, bằng 108,86% so với cùng kỳ năm trước và đạt 27,71% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 684,500 tỷ đồng, bằng 153,50% so với cùng kỳ năm trước và đạt 31,84% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 5.115,790 tỷ đồng, bằng 100,23% so với cùng kỳ năm trước và đạt 32,01% so với kế hoạch năm.
3. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
3.1. Nông nghiệp
Lúa đông xuân 2020, chính thức toàn tỉnh đã xuống giống được 77.820 ha, bằng 101% so với kế hoạch tỉnh (kế hoạch tỉnh 77.000 ha), so với cùng kỳ giảm 0,76% (bằng 598 ha). Lúa chủ yếu đang ở giai đoạn thu hoạch cuối vụ. Diện tích lúa đã thu hoạch được 77.729,6 ha; ước năng suất cả vụ được 75,12 tạ/ha, tăng 2,39% (bằng 1,75 tạ/ha) so với cùng kỳ; sản lượng lúa đông xuân năm nay ước tính được 584.585 tấn, tăng 1,6% (bằng 9.231 tấn) so với cùng kỳ.
Lúa hè thu, đến nay ước toàn tỉnh đã xuống giống được 54.974 ha, lúa đang ở giai đoạn mạ sinh trưởng và phát triển tốt, so với cùng kỳ tăng 12,02% (bằng 5.897,6 ha). Nguyên nhân là do hộ nông dân thu hoạch lúa đông xuân sớm nên xuống giống lúa hè thu sớm và đồng bộ hơn so với cùng kỳ.
Niên vụ mía 2020, toàn tỉnh đã xuống giống được 5.870 ha giảm 29,40% (giảm 2.444 ha), tập trung ở huyện Phụng Hiệp, thành phố Vị Thanh và thành phố Ngã Bảy. Hiện mía đang ở giai đoạn 1-3 tháng tuổi, sinh trưởng và phát triển tốt.
Diện tích gieo trồng ngô toàn tỉnh ước được 1.472,2 ha, so cùng kỳ năm trước giảm 1,28% (bằng 19 ha); năng suất sơ bộ 55,23 tạ/ha, tăng 0,31% (bằng 0,17 tạ/ha) so với cùng kỳ; sản lượng sơ bộ được 8.131 tấn, giảm 0,97% (bằng 80 tấn) so với cùng kỳ.
Diện tích gieo trồng rau các loại được 9.771 ha, so với năm trước tăng 4,63% (bằng 432 ha). Sản lượng thu hoạch ước được 84.795 tấn, tăng 0,39% (bằng 332 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Về tình hình dịch bệnh: Trong tháng 4, toàn tỉnh có 1.604 ha lúa nhiễm sinh vật hại, trong đó có 5 ha nhiễm trung bình, còn lại nhiễm nhẹ phân bố hầu hết ở các huyện, thị, thành; sinh vật gây hại trên cây mía là 127 ha, cây rau màu là 266 ha, chủ yếu là sâu tơ, sâu ăn tạp, các loại sâu ăn lá, rệp sáp, bọ trĩ, bọ nhảy,...với mức độ gây hại nhẹ. Ngành Nông nghiệp đã tiến hành tư vấn ngoài đồng ruộng cho nông dân về kỹ thuật canh tác và quản lý sinh vật gây hại trên cây trồng. Đồng thời, tiến hành tập huấn nhanh về tình hình sinh vật gây hại trên lúa và cây ăn trái, khuyến cáo bà con nông dân thường xuyên thăm đồng để phát hiện sinh vật gây hại, kịp thời có biện pháp xử lý.
3.2. Chăn nuôi
Ngành Thú y tiếp tục duy trì công tác tiêm phòng dịch bệnh ở đàn gia súc và dịch cúm trên gia cầm, tăng cường công tác kiểm tra giám sát chặt chẽ việc vận chuyển, mua bán, giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh.Ước tính tháng 4, số đầu con gia súc, gia cầm cụ thể như sau:
- Đàn trâu: Hiện có 1.495 con, nhìn chung ổn định, không biến động so với tháng trước nhưng giảm 2,67% so với cùng kỳ năm trước.
- Đàn bò: Hiện có 3.712 con, tăng 2,80% so với cùng kỳ, sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong tháng ước được 16,1 tấn, tăng 4,55% so với cùng kỳ năm trước.
- Đàn heo: Hiện có 80.640 con heo, giảm 46,00% (giảm 68.688 con). Trong đó, heo thịt 70.123 con, giảm 46,29% (giảm 60.435 con). Đàn heo giảm do ảnh hưởng dịch tả heo Châu phi.
- Đàn gia cầm: Hiện có 4.441,6 ngàn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 7,31% (tăng 302,5 ngàn con). Trong đó: đàn gà 1.357,6 ngàn con, tăng 6,46% (tăng 82,4 ngàn con). Đàn gia cầm tăng do giá thịt gia cầm ổn định, dịch bệnh ít, thị trường đầu ra tốt.
Về tình hình dịch bệnh: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không xuất hiện dịch cúm gia cầm, bệnh dịch tả heo Châu phi đã được khống chế, không có heo chết và tiêu hủy do bệnh.
3.3. Lâm nghiệp
Trong tháng, sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung vào công tác chăm sóc và bảo vệ rừng, không có diện tích rừng trồng mới tập trung. Tính từ đầu năm đến nay, sản lượng gỗ khai thác ước được 4.211,8 m3 gỗ, tăng 1,88% (bằng 77,7 m3) so với cùng kỳ, sản lượng củi khai thác ước được 39.211,8 ste, giảm 1,93% (bằng 772,5 ste) so với cùng kỳ.
Công tác thẩm định, kiểm tra, giám sát, khai thác rừng đảm bảo đúng quy định, công tác phòng chống cháy rừng được quán triệt và làm tốt nên diện tích rừng được bảo vệ an toàn. Từ đầu năm đến nay không xảy ra cháy rừng trên địa bàn tỉnh.
3.4. Thủy sản
Tính từ đầu năm đến nay, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 2.056,5 ha, tăng 4,09% (bằng 80,74 ha) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng sản lượng thủy sản 4 tháng, ước được 22.140 tấn, tăng 3,14% (bằng 675 tấn) so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng được 21.102,9 tấn, tăng 3,34% (bằng 681,8 tấn); sản lượng thủy sản khai thác được 1.037 tấn, giảm 0,66% (bằng 6,9 tấn).
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp trong 4 tháng đầu năm 2020, ngành Nông nghiệp đã tập trung vào công tác thu hoạch lúa đông xuân và xuống giống vụ lúa hè thu 2020, thường xuyên kiểm tra mực nước, độ mặn, theo dõi diễn biến tình hình xâm ngập mặn để cảnh báo kịp thời với người dân, thực hiện các giải pháp chống hạn, xâm nhập mặn cho lúa và các loại cây trồng khác.
Bên cạnh việc phòng chống dịch COVID-19, ngành chức năng đã chủ động chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các huyện, vùng có sản xuất cây trái (như: Mít, sầu riêng, dưa hấu, thanh long,…) bị ảnh hưởng trong thương mại để tìm biện pháp khắc phục. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua tỉnh không bị ảnh hưởng lớn.
4. Tình hình sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện tháng 4, tính theo giá so sánh 2010, được 1.770,567 tỷ đồng, giảm 14,36% so với tháng trước và giảm 16,69% so với cùng kỳ năm trước. Tính theo giá thực tế, được 2.597,329 tỷ đồng, giảm 11,50% so với tháng trước và giảm 14,46% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do thực hiện nghiêm Chỉ thị số 16/CT-TTg, nên các cơ sở sản xuất cá thể công nghiệp và một số doanh nghiệp giảm quy mô sản xuất do thực hiện một số biện pháp như: Giải quyết một số công nhân nghỉ tạm thời; chia ca làm việc để giảm số lượng công nhân trong cùng nhà xưởng sản xuất; tăng số lượng xe đưa rước công nhân để đảm bảo giữ khoảng cách an toàn cho công nhân,… Vì vậy, doanh nghiệp chỉ sản xuất đủ lượng hàng hóa để hoàn thành các hợp đồng đã ký, do đó giá trị sản xuất tháng này giảm so với tháng trước và cùng kỳ.
Hiện nay, dịch COVID-19 đang diễn biến hết sức phức tạp, lãnh đạo các cấp, các ngành tại địa phương đã có kế hoạch và giải pháp kiểm soát dịch bệnh tốt. Vì vậy, trên địa bàn tỉnh có 182 doanh nghiệp và 4.967 cơ sở cá thể hoạt động ngành công nghiệp. Mặc dù ảnh hưởng từ dịch COVID-19 nhưng đến tháng 4 năm 2020, không có doanh nghiệp hay cơ sở cá thể hoạt động ngành công nghiệp nào phải tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể do ảnh hưởng từ dịch bệnh COVID-19. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp có giá trị sản xuất lớn đã ký hợp đồng trước khi dịch bệnh xảy ra (hợp đồng trên 6 tháng) và nguồn nguyên, vật liệu do bên mua hàng hóa chịu trách nhiệm cung cấp. Vì vậy, mặc dù ảnh hưởng từ dịch COVID-19 nhưng giá trị sản xuất một số doanh nghiệp chỉ giảm nhẹ đến khi hoàn thành các hợp đồng dài hạn đã ký (giảm do doanh nghiệp hiện chưa ký được các hợp đồng mới). Riêng các doanh nghiệp không bị ảnh hưởng trực tiếp từ dịch COVID-19 do sử dụng nguồn nguyên, vật liệu trong nước và sản xuất các mặt hàng tiêu thụ nội địa vẫn hoạt động ổn định, nhưng do bị ảnh hưởng từ Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ nên các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất công nghiệp có giảm nhẹ so với cùng kỳ. Vì vậy, ước giá trị sản xuất công nghiệp 4 tháng năm 2020, giảm so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, giá trị sản xuất công nghiệp ước tính 4 tháng, tính theo giá so sánh 2010, được 7.855,838 tỷ đồng, giảm 3,42% so với cùng kỳ năm trước. Tính theo giá thực tế, được 11.163,021 tỷ đồng, giảm 1,20% so với cùng kỳ năm trước.
Trong thời gian tới, nếu đại dịch COVID-19 tiếp tục kéo dài, một số doanh nghiệp hoạt động trong các ngành như: Chế biến thủy sản, dệt may, bột giấy và bìa giấy, da giày không thể ký được hợp đồng và nhập được nguyên vật liệu để sản xuất thì có khả năng giá trị sản xuất công nghiệp trong những tháng tới có thể giảm rất nhiều so với cùng kỳ. Vì vậy, để hoàn thành kế hoạch năm 2020, đề nghị các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cần có kế hoạch, chính sách kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp ngày càng tăng trong những tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 4, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa bàn tỉnh Hậu Giang giảm 14,53% so với tháng trước và giảm 18,26% so với cùng kỳ. Cụ thể:
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Giảm 14,67% so với tháng trước và giảm 18,45% so với cùng kỳ. Trong đó, giảm nhiều so với mức giảm của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo như: Ngành sản xuất chế biến thực phẩm; sản xuất trang phục; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác… Cụ thể:
- Ngành sản xuất chế biến thực phẩm giảm 11,98% so với tháng trước và giảm 31,73% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chế biến thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản lần lượt giảm 10,07%; giảm 30,88%. Ngành chế biến và bảo quản rau quả giảm 13,49%; giảm 14,68%. Ngành xay xát và sản xuất bột thô giảm 12,09%; giảm 11,02%. Ngành sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản giảm 16,37%; giảm 36,04%… Nguyên nhân là do ảnh hưởng từ dịch bệnh COVID-19, một số doanh nghiệp thiếu nguồn nguyên liệu sản xuất, hoặc khó khăn trong quá trình làm thủ tục thông quan đến một số thị trường truyền thống có dịch bệnh, nên một số doanh nghiệp trong ngành chế biến thực phẩm cắt giảm trên 9,46% lao động. Bên cạnh đó, từ khi Chỉ thị số 16/CT-TTg có hiệu lực, doanh nghiệp phát sinh thêm nhiều chi phí như: Tăng số lượng xe đưa rước công nhân (do giữ khoản cách 2m), chi phí khẩu trang, nước rửa tay,… nên doanh nghiệp chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng đã ký trước đó và số lượng hợp đồng ký mới trong những tháng gần đây giảm rất nhiều. Vì vậy, dự tính chỉ số sản xuất tháng 4 năm 2020 giảm so với cùng kỳ năm trước.
- Ngành sản xuất trang phục giảm 13,58% so với tháng trước và giảm 18,32% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do một số doanh nghiệp gia công hàng hóa cho nước ngoài thiếu nguồn nguyên, vật liệu từ nhà cung cấp trung gian và lượng hợp đồng gia công cũng giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước, nên dự tính chỉ số sản xuất tháng này giảm so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
- Ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan, giảm 14,70% so với tháng trước và giảm 7,45% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công ty TNHH Lạc Tỷ II, với sản phẩm chính là giày da các loại, mặc dù doanh nghiệp bị ảnh hưởng từ dịch bệnh COVID-19 nhưng nguyên liệu để sản xuất do bên khách hàng cung cấp và số lượng nguyên liệu tồn kho tại doanh nghiệp còn sử dụng đến hết tháng 4 năm 2020, nhưng do trong những tháng gần đây số lượng hợp đồng mới được ký của doanh nghiệp giảm đáng kể. Vì vậy, chỉ số sản xuất dự tính tháng 4 giảm so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
- Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 16,44% so với tháng trước và giảm 23,77% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do ảnh hưởng từ Chỉ thị số 16/CT-TTg nên một số doanh nghiệp hoạt động ngành xây dựng tạm dừng xây dựng một số hạn mục nên dự tính chỉ số sản xuất ngành này giảm so với tháng trước và cùng kỳ.
- Bên cạnh đó, Mặc dù ảnh hưởng chung từ dịch bệnh COVID-19 nhưng một số doanh nghiệp vẫn duy trì và hoạt hoạt động ổn định, làm tăng sản lượng sản xuất so với cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống giảm 7,23% so với tháng trước nhưng tăng 86,18% so với cùng kỳ (do Công ty TNHH number one Hậu Giang mới đi vào hoạt động ổn định từ đầu năm đến nay); Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 4,45% so với tháng trước và tăng 9,86% so với cùng kỳ (do doanh nghiệp đã ký hợp đồng trước khi dịch bệnh xảy ra và nguồn nguyên, vật liệu do khách hàng cung cấp nên đến thời điểm này doanh nghiệp giảm so với tháng trước nhưng vẫn tăng so với cùng kỳ); In, sao chép bản ghi các loại giảm 14,51% so với tháng trước và tăng 39,78% so với cùng kỳ… Mặc dù chỉ số sản xuất các ngành này tăng so với cùng kỳ năm trước, nhưng không đủ bù lại các ngành giảm so với cùng kỳ. Vì vậy, chỉ số sản xuất dự tính tháng 4 năm 2020 giảm hơn so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: Tăng 2,32% so với tháng trước và giảm 5,75% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 3,18% so với tháng trước và giảm 5,35% so với cùng kỳ. Ngành điện đã cung cấp đủ điện, an toàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đã hạn chế tối đa không để mất điện, đảm bảo nhu cầu sử dụng cho người dân và các doanh nghiệp được hoạt động liên tục, nhất là trong mùa nắng nóng như hiện nay.
Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Giảm 0,67% so với tháng trước và tăng 14,60% so với cùng kỳ. Hiện nay tình hình xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh đang diễn ra hết sức phức tạp, nên Công ty Cổ phần Cấp thoát nước – Công trình đô thị Hậu Giang đã có kế hoạch chủ động đối phó, hoạt động liên tục, khai thác thêm các nguồn nước ngầm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước phục vụ tốt việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho mọi người dân. Sản lượng sản xuất nước sạch sinh hoạt dự tính tháng 4 năm 2020 được 1.094,59 ngàn m3, tăng 206,76 ngàn m3 so với cùng kỳ năm trước
5. Hoạt động thương mại, dịch vụ
5.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ
Bước qua tháng 4, thị trường hàng hóa trên địa bàn tỉnh tiếp tục giảm mạnh so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, do tác động của dịch COVID-19, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg, tiến hành cách ly toàn xã hội trong vòng 15 ngày từ ngày 01/4/2020. Do đó, đã ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của ngành thương mại, dịch vụ trong tháng. Hầu hết các nhóm hàng hóa, các ngành dịch vụ trên địa bàn tỉnh đều giảm mạnh so với tháng trước và so cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện tháng 4, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 2.178,157 tỷ đồng (Trong đó, doanh thu chi nhánh của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh là 294,540 tỷ đồng), so với thực hiện tháng trước bằng 77,64% và so với cùng kỳ năm trước bằng 66,71%. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 1.786,702 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 83,14% và so với cùng kỳ năm trước bằng 73,39%. Mặc dù tháng 4 là tháng có nhiều ngày lễ, Tết như: Giỗ tổ Hùng Vương, Tết Thanh Minh, Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer, kỳ nghỉ lễ giải phóng Miền Nam 30/4, nhưng do ảnh hưởng của dịch bệnh nên doanh thu thương mại không tăng như những năm trước, hầu hết các nhóm hàng hóa trong tháng đều giảm so tháng trước và so cùng kỳ, duy nhất chỉ có nhóm hàng lương thực, thực phẩm có tăng so với tháng trước do nhu cầu phục vụ những ngày lễ, tết của người dân, bên cạnh đó nhóm lương thực, thực phẩm là nhóm hàng thiết yếu, nhiều người dân có tâm lý tích trữ nên doanh thu của nhóm hàng này tăng, tuy nhiên mức tăng thấp.
- Doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác thực hiện được 148,581 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 56,50% và so với cùng kỳ năm trước bằng 48,82%.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 242,874 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 61,70% và so với cùng kỳ năm trước bằng 46,13%.
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19 đối với ngành lưu trú, ăn uống và dịch vụ tiêu dùng khác nên doanh thu giảm mạnh so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các ngành dịch vụ đều giảm sâu so với tháng trước và so cùng kỳ năm trước, trong đó, ngành giảm rất nhiều là ngành lưu trú, ăn uống, dịch vụ giáo dục, đào tạo và vui chơi, giải trí.
Ước thực hiện 4 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 11.837,792 tỷ đồng (Trong đó, chi nhánh của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh là: 1.452,999 tỷ đồng), so với cùng kỳ năm trước bằng 88,52%. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 9.118,707 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 90,51%.
- Doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác thực hiện được 1.014,547 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 88,42%.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 1.704,538 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 73,40%.
Nhìn vào số liệu thương mại, dịch vụ ước 4 tháng đầu năm 2020 cho thấy ngành thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Hậu Giang bị ảnh hưởng rất lớn do dịch bệnh COVID-19. Nếu tình hình dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp sẽ tiếp tục ảnh hưởng các ngành kinh tế nói chung và ngành thương mại, dịch vụ nói riêng. Vì vậy, đòi hỏi các cấp, các ngành của tỉnh cần có những phương hướng tích cực, phù hợp hơn nữa với tình hình hiện nay để ổn định kinh tế địa phương trong thời gian tới.
5.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Ước thực hiện tháng 4, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp được 64,684 triệu USD, so với thực hiện tháng trước bằng 91,89% và so với cùng kỳ năm trước bằng 92,77%. Chia ra:
- Xuất khẩu được 35,221 triệu USD, so với tháng trước bằng 84,52% và so với cùng kỳ năm trước bằng 87,25%. Do tình hình dịch bệnh COVID-19 đang có nhiều diễn biến phức tạp, có tốc độ lây lan nhanh và chưa có dấu hiệu chững lại, đã gây thiệt hại lớn về kinh tế cho các thị trường xuất khẩu chính của các doanh nghiệp trên địa bàn là Mỹ, các nước EU, Nhật Bản, Hàn Quốc.... dịch bệnh hoành hành buộc các nước phải đóng cửa biên giới, hạn chế giao thương với bên ngoài, đồng thời cho ngưng hầu hết các hoạt động kinh tế trên cả nước. Điều này gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc ký kết các hợp đồng xuất khẩu mới hoặc có hợp đồng cũng với số lượng rất hạn chế. Vì vậy, dự đoán giá trị xuất khẩu trong tháng 4 có thể sẽ tiếp tục giảm.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 29,463 triệu USD, so với tháng trước bằng 102,59% và so với cùng kỳ năm trước bằng 100,36%.
Ước thực hiện 4 tháng, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 276,327 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 104,57 %. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 163,109 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,66 %.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 92,853 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 101,46%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,761 triệu USD, tăng cao so với cùng kỳ năm trước bằng 225,15%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 19,604 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 100,72%.
Hiện nay, tình hình dịch bệnh COVID-19 có chiều hướng diễn biến xấu, có tốc độ lây lan nhanh, hầu hết tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đều có ghi nhận ca mắc, tâm dịch đang bùng phát mạnh mẽ ở Mỹ và các nước Châu Âu (EU) khiến nền kinh tế các nước đang bị ngưng trệ, hầu hết các hoạt động kinh tế đều ngưng hoạt động ngoại trừ một số ngành kinh tế phục vụ nhu cầu thiết yếu. Điều này không chỉ gây thiệt hại lớn cho các nước mà còn gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Mặc dù đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đang kiểm soát tốt dịch bệnh nhưng các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn cũng đang gặp rất nhiều khó khăn về nguồn nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất cũng như tìm kiếm thị trường đầu ra.
Vì vậy, ngay từ bây giờ các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng kế hoạch, tìm ra các giải pháp và phương án tối ưu để phát triển sản xuất, tránh để xảy ra tình trạng ngưng trệ, biến nguy thành cơ trong tình hình khó khăn hiện nay. Các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm và tận dụng tối đa các nguồn nguyên liệu đạt yêu cầu trong nước, tránh phụ thuộc nhiều vào nguồn lực bên ngoài để hạn chế rủi ro nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh, áp dụng tất cả các biện pháp có thể để duy trì hoạt động sản xuất, chờ đợi, tìm kiếm cơ hội trong khó khăn để bứt phá và tạo ra giá trị thặng dư nhằm hạn chế sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu chung so với cùng kỳ năm trước trên địa bàn.
5.3. Vận tải hàng hóa và hành khách
Hiện nay, tình hình dịch bệnh COVID-19 đang có nhiều diễn biến phức tạp và có tốc độ lay lan rất nhanh, hầu hết tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đều có người nhiễm bệnh. Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thực hiện cách ly toàn xã hội, hạn chế tụ tập đông người và sự đi lại của người dân. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến tình hình hoạt động vận tải, kho bãi trên địa bàn. Cụ thể, trong tháng 4 tình hình vận chuyển, luân chuyển hành khách và hàng hóa trên địa bàn kém sôi động, giá trị vận tải khu vực đường bộ và đường thủy đều có sự sụt giảm mạnh so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, đặc biệt là các hoạt động vận chuyển hành khách hầu như tất cả các phương tiện không hoạt động chở khách trong 15 ngày đầu của tháng 4 khiến hoạt động vận tải chung bị sụt giảm.
Ước tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện trong tháng 4 được 62,944 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 76,96%. Chia ra: Đường bộ thực hiện được 18,115 tỷ đồng bằng 52,32% so với cùng kỳ năm trước; đường thủy thực hiện được 26,243 tỷ đồng bằng 70,34% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát được 18,586 tỷ đồng bằng 188,60% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện 4 tháng được 344,857 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 97,87%. Chia ra: Đường bộ thực hiện được 122,822 tỷ đồng bằng 85,16% so với cùng kỳ năm trước; đường thủy thực hiện được 135,966 tỷ đồng bằng 88,15% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát được 86,069 tỷ đồng, bằng 159,71% so với cùng kỳ năm trước.
5.3.1 Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 4, toàn tỉnh vận chuyển được 484,28 nghìn tấn hàng hóa các loại (28,17 triệu tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 85,99% (79,02%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 78,39% (75,61%). Chia ra: Đường bộ thực hiện được 112,50 nghìn tấn (4,83 triệu tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 79,38% (75,79%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 81,05% (74,59%); đường sông thực hiện được 371,78 nghìn tấn (23,34 triệu tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 88,21% (79,72%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 77,63% (75,82%).
Ước thực hiện 4 tháng, toàn tỉnh vận chuyển được 2.404,18 nghìn tấn hàng hóa các loại (162,84 triệu tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 99,30% (108,05%). Chia ra: Đường bộ thực hiện được 580,88 nghìn tấn (28,97 triệu tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 99,44% (97,28%); đường sông thực hiện được 1.823,29 nghìn tấn (133,86 triệu tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 99,25% (110,71%).
5.3.2 Vận chuyển, luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 4, toàn tỉnh thực hiện được 4.346,31 nghìn lượt hành khách (23,03 triệu HK.km), so với tháng trước bằng 59,24% (60,51%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 48,08% (48,32%). Chia ra: Đường bộ vận chuyển được 2.793,36 nghìn lượt hành khách (14,88 triệu HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 53,81% (54,88%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 39,85% (43,09%); đường sông vận chuyển được 1.552,94 nghìn lượt hành khách (8,15 triệu HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 72,37% (74,46%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 76,52% (62,11%).
Ước thực hiện 4 tháng, toàn tỉnh vận chuyển được 30.148,86 nghìn lượt hành khách (165,25 triệu HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 79,05% (80,49%). Chia ra: Đường bộ thực hiện được 21.260,61 nghìn lượt hành khách (115,42 triệu HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 75,02% (78,36%); đường sông thực hiện được 8.888,26 nghìn lượt hành khách (49,83 triệu HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 90,70% (85,88%).
6. Các vấn đề về xã hội
6.1. Giáo dục
Trong tháng, Sở Giáo dục và Đào tạo tập trung vào hoạt động chuyên môn của các ngành học, cấp học như sau:
- Giáo dục mầm non: Nghiên cứu hồ sơ các trường đăng kí kiểm định chất lượng giáo dục và chuẩn quốc gia; soạn thảo và ban hành các văn bản chỉ đạo về phòng chống dịch COVID-19 cấp học mầm non.
- Giáo dục tiểu học: Sơ kết Dự án Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật năm 2019, triển khai kế hoạch năm 2020, thực hiện các nội dung Chương trình “Giáo dục an toàn giao thông cho nụ cười trẻ thơ” năm học 2019-2020, tham mưu chỉ đạo các đơn vị lựa chọn Sách giáo khoa lớp 1 theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với các môn học được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt ban hành. Tiếp tục phối hợp với Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tập huấn thực hiện chương trình thay sách giáo khoa 2018 (cho cán bộ quản lý – giáo viên các trường tiểu học). Chỉ đạo các trường tiểu học có giải pháp ôn tập, củng cố kiến thức cũng như có các hình thức học tập phù hợp trong tình hình phòng chống dịch bệnh COVID-19. Báo cáo rà soát tình hình thực hiện việc triển khai theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
- Giáo dục trung học - giáo dục chuyên nghiệp: Tiếp tục hướng dẫn các trường chuẩn bị kế hoạch tuyển sinh lớp 10 trung học phổ thông và lớp 10 trung học phổ thông chuyên năm học 2020-2021. Hướng dẫn công tác ôn thi trung học phổ thông quốc gia năm 2020. Hướng dẫn các trường trung học, các trung tâm giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên thực hiện dạy học trên Internet, học qua truyền hình trong thời gian nghỉ học phòng chống dịch COVID-19.
6.2. Tình hình văn hóa, thể thao
Trước dịch COVID-19 diễn ra phức tạp trong nước và thế giới và tình hình hạn mặn gây nhiều khó khăn cho bà con khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đài Phát thanh và Truyền hình đã dành nhiều thời lượng và mở nhiều chương trình để tuyên truyền công tác phòng, chống dịch COVID-19, vấn đề hạn mặn ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trên các hạ tầng phát sóng phát thanh, truyền hình và hạ tầng trên Internet của Đài.
Tổng số chương trình tuyên truyền về dịch COVID-19:
- Truyền hình: Phát sóng bình quân 18 đầu chương trình/ngày, phát thông điệp: 3-5 lần/ngày, phát lại: 05-7 chương trình/ngày. Tổng số chương trình ước tính trong tháng khoảng: 410 chương trình. Tổng thời lượng phát sóng: khoảng 3.960 phút. Tổng số tin, bài phát sóng: 3.520 tin-bài; 670 phóng sự, phỏng vấn; 05 cuộc tọa đàm Chung sức chống COVID-19. Mở 04 bản tin “Chung tay chống dịch covid-19”(4h30, 7h15, 13h, 20h5), 02 Bản tin Vượt qua đại dịch COVID-19 (phát sóng lúc 9 giờ và 15 giờ).
- Phát sóng Phát thanh: 16 đầu chương trình/ ngày + phát thông điệp: 3-5 lần/ngày, phát lại: 5 chương trình/ngày. Tổng số chương trình ước tính khoảng: 388 chương trình. Tổng thời lượng phát sóng: khoảng 3.410 phút. Tổng số tin, bài phát sóng: khoảng 2.000 tin, bài, 36 chương trình “Chống dịch như chống giặc”.
- Bên cạnh việc tuyên truyền về dịch COVID-19 trên sóng phát thanh, truyền hình, Đài còn đăng tải thông tin tuyên truyền trên các hạ tầng trên internet như: Website haugiangtivi.vn, App HauGiangTV, Kênh Youtube và Trang facebook Truyền hình Hậu Giang. Tổng số lượt theo dõi trên mạng các chương trình về dịch COVID-19 trong tháng khoảng 77,3 triệu lượt xem (bình quân trên 3,5 triệu lượt xem/ngày), đáng chú ý có những clip phát trên Fanpage của Đài đạt trên 7 triệu lượt xem, có những bản tin khi trực tiếp đạt mức xem cùng lúc trên 27.000 lượt. Đài đã tiếp nhận cảm xúc, bình luận, chia sẻ từ khán giả gần 1.000.000 lượt; giải đáp thắc mắc cho khán giả khoảng 66.000 ý kiến.
Với kết quả đạt được trong tuyên truyền phòng, chống dịch COVID-19 trên các hạ tầng của Đài, nổi bật 4 nội dung là cập nhật kịp thời diễn biến dịch bệnh, các chủ trương, chỉ đạo từ trung ương đến địa phương; phản ánh tình hình thực hiện cách ly xã hội của người dân trong tỉnh, khu vực, cả nước; sự chung tay góp sức của xã hội trong phòng chống dịch và đảm bảo các hàng hóa thực phẩm thiết yếu cho người dân, đã góp phần giúp cho người dân trong tỉnh Hậu Giang và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiểu biết, nắm bắt thông tin kịp thời, hưởng ứng và hành động theo chỉ đạo của Chính phủ và chính quyền địa phương, thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước một cách cụ thể, chi tiết.
Trong tháng, Đài thực hiện phát trên sóng phát thanh, truyền hình khoảng trên 6.000 tin, 1.200 phóng sự phỏng vấn. Số tin, phóng sự tuyên truyền cao gấp 03 lần so với các tháng trước, do Đài dành nhiều thời lượng để tuyên truyền phòng chống dịch bệnh COVID-19, hạn mặn và các chủ trương chính sách, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cùng các vấn đề dân sinh.
Bên cạnh đó, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã thực hiện maket pano, băng rol, cờ phướn về phòng, chống dịch COVID-19, cụ thể như: in và lắp mới 275 pano các loại (trong đó 30 pano di động), treo 266 băng rol, 622 cờ phướn.
Thực hiện viết 04 bài cổ động, thu âm và gửi cho Trung tâm Văn hóa - Thể thao các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh tuyên truyền thực hiện Chỉ thị số 15, Chỉ thị số 16 của Thủ tướng Chính phủ; Chỉ thị 510, Chỉ thị 534 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang về phòng, chống dịch COVID-19 và tổ chức phóng thanh trên giáp địa bàn của tỉnh. Kết quả phóng thanh cổ động 22 buổi; xe tuyên truyền cổ động của các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tuyên truyền tại các xã, phường, thị trấn được 163 buổi.
Về hoạt động thư viện: Tổ chức trưng bày sách 4 lần, bao gồm: Sách kỷ niệm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 26/3; Sách mới các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… và trưng bày thường xuyên Sách chuyên đề về Cải cách hành chính, Tủ sách Bác Hồ.
Về hoạt động bảo tồn - bảo tàng và phát huy giá trị di sản văn hóa: Nghiệm thu đưa vào sử dụng 02 công trình (nâng cấp, sửa chữa hệ thống thoát nước Khu di tích quốc gia đặc biệt Chiến thắng Chương Thiện, thị trấn Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ và Trồng bổ sung cây xanh di tích Đền thờ Bác Hồ tại xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ).
Về sự nghiệp thể dục thể thao: Sắp xếp cho vận động viên tập luyện tại nhà theo giáo án của Huấn luyện viên.
6.3. Lao động và an sinh xã hội
Trong tháng, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các ngành, địa phương liên hệ ngành dọc Trung ương để có sự chủ động trong rà soát, thống kê, nắm chắc số lượng các đối tượng sẽ được thụ hưởng và dự thảo kế hoạch của Ủy ban Nhân dân để khi Trung ương ban hành văn bản chính thức về gói an sinh xã hội, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng và thiệt hại do đại dịch COVID-19 sẽ triển khai thực hiện.
Dự kiến tổng số đối tượng được hỗ trợ trên địa bàn tỉnh là 128.562 người, tổng kinh phí: 180.372,75 triệu đồng. Trong đó:
- Người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp thường xuyên hàng tháng (sau khi đã rà soát chống trùng): 6.413 người, kinh phí: 9.619,5 triệu đồng.
- Đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng (sau khi đã rà soát chống trùng và loại trừ): 32.922 người, kinh phí: 49.383 triệu đồng.
- Người nghèo (sau khi đã loại trừ là người có công, người hưởng chính sách bảo trợ xã hội, nhưng chưa loại trừ nhóm lao động tự do): 35.516 người, kinh phí: 26.637 triệu đồng.
- Người cận nghèo (sau khi đã loại trừ là người có công, người hưởng chính sách bảo trợ xã hội, nhưng chưa loại trừ nhóm lao động tự do): 32.711 người, kinh phí: 24.533,25 triệu đồng.
- Người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động phải thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng lương: khoảng 3.000 người, kinh phí: 16.200 triệu đồng.
- Người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp: 500 người, kinh phí: 1.500 triệu đồng.
- Người lao động không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm (lao động tự do: bán hàng rong, thu gom rác, làm nghề bóc vác, vận chuyển hàng hóa, lái xe mô tô 02 bánh chở khách, người bán vé số lưu động, người lao động tại các cơ sở dịch vụ ăn uống lưu trú, du lịch, chăm sóc sức khỏe): 17.500 người, kinh phí: 52.500 triệu đồng.
Ngoài công tác phòng, chống dịch COVID-19 thì ngành Lao động, Thương binh và Xã hội tiếp tục tập trung thực hiện nhiệm vụ công tác trên các lĩnh vực lao động, người có công với cách mạng và xã hội như sau:
- Trong tháng, giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 736 lao động, đạt 32,9% kế hoạch năm.
- Ban hành Quyết định giải quyết chế độ Bảo hiểm thất nghiệp theo quy định cho 313 người, với số tiền 4.237,066 triệu đồng.
- Tư vấn việc làm cho 1.854 lao động; có 306 lao động đăng ký tìm việc làm; giới thiệu việc làm cho 237 lao động.
- Về lĩnh vực hỗ trợ tuyển dụng lao động cho doanh nghiệp: đã hỗ trợ tuyển dụng 685 lao động cho 21 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
- Về lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 186 hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 246 hồ sơ (Trong đó, đạt 195 hồ sơ; không đạt 51 hồ sơ). Còn lại 61 hồ sơ đang tiếp tục xem xét, giải quyết.
- Về lĩnh vực Bảo trợ xã hội – Giảm nghèo:
+ Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 31.697 đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 11.784,015 triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 190 trường hợp với số tiền 1.026 triệu đồng; hỗ trợ đột xuất cho 05 trường hợp với số tiền 31 triệu đồng.
+ Phối hợp với Hội Bảo trợ Người khuyết tật - Trẻ mồ côi - Bệnh nhân nghèo tỉnh và Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin tỉnh tổ chức thăm, tặng 332 phần quà (mỗi phần trị giá 300.000 đồng) cho 332 người khuyết tật nhân Ngày người khuyết tật Việt Nam 18/4/2020, tổng kinh phí 99,6 triệu đồng.
+ Ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện các dự án thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo bền vững năm 2020.
- Về công tác quản lý đối tượng: số người nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý tại địa phương đến thời điểm báo cáo là 1.352 đối tượng; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 177 người.
6.4. Y tế
Theo báo cáo của Sở Y tế, trong tháng có 12 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 02 ca so với tháng trước, cộng dồn là 64 ca, giảm 21 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 07 ca mắc mới, giảm 05 ca so với tháng trước, cộng dồn là 70 ca, giảm 47 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh viêm gan do virút, bệnh quai bị trong tháng không có ca mắc mới; riêng bệnh dịch lạ như: EBOLI, H5N1, MERS-CoV, Zika chưa phát hiện ca mắc trên địa bàn tỉnh.
Về tình hình dịch COVID-19: Hiện tại tỉnh Hậu Giang chưa ghi nhận trường hợp bệnh, tính đến sáng ngày 13/4/2020 tổng số người nước ngoài và người Việt Nam từ nước ngoài trở về đang theo dõi, cách ly tại Hậu Giang là: 5.132 trường hợp, Trong đó:
- Đủ thời gian theo dõi, cách ly 14 ngày là: 3.693 trường hợp
- Cách ly tập trung: 05 trường hợp.
- Theo dõi sức khỏe tại nhà, nơi cư trú: 1.434 trường hợp.
Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 0 trẻ, cộng dồn là 2.803 trẻ, đạt 24,22%; tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 0 trẻ, cộng dồn là 2.728 trẻ, đạt 23,97%; tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 0 thai phụ, cộng dồn là 2.614 thai phụ, đạt 23,05%; số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng là 12 ca, cộng dồn là 28 ca (tăng 01 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.774 ca (còn sống 1.186 người); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng là 01ca, cộng dồn là 04 ca (giảm 04 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.026 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng là 0 ca, cộng dồn là 03 ca (tăng 01 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 588 ca.Trong tháng khám và cấp thuốc cho 493 lượt bệnh nhân. Số người hiện đang điều trị Methadone là 56 người.Tổng số bệnh nhân điều trị ARV là 790 người.
Sở Y tế tiếp tục triển khai thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, chủ động, hạn chế thấp nhất sự lây lan của dịch bệnh, bệnh sốt xuất huyết và tay chân miệng giảm so với cùng kỳ. Tham mưu Ban Chỉ đạo tỉnh triển khai các giải pháp phòng chống và điều trị bệnh COVID-19, phối hợp với các đơn vị có liên quan triển khai tốt công tác quản lý và cách ly người nước ngoài về địa bàn tỉnh (có liên quan đến dịch bệnh). Thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin về tình hình dịch bệnh, khuyến cáo phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trên Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế và Báo Sức khỏe và Đời sống. Triển khai ứng dụng “Sức Khỏe Việt Nam” cho toàn thể công chức, viên chức và người lao động trong ngành Y tế, hướng dẫn người dân sử dụng Ứng dụng “Sức khỏe Việt Nam”.
Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn được duy trì tốt (không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm trên 30 người/vụ).
6.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông
Theo số liệu của Ban An toàn giao thông tỉnh Hậu Giang, trong tháng 4, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông, làm chết 04 người và làm bị thương 01 người. So với tháng trước tương đương về số vụ, số người chết tăng 02 người và số người bị thương giảm 01 người, tất cả đều tập trung ở đường bộ, đường thủy không xảy ra tai nạn giao thông. So với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 06 vụ, số người chết giảm 05 người và số người bị thương giảm 01 người, tất cả tập trung ở đường bộ.
Trong 4 tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra tổng cộng 15 vụ tai nạn giao thông, làm chết 12 người và làm bị thương 04 người, tất cả tập trung ở đường bộ. So với cùng kỳ năm trước giảm 21 vụ (đường bộ giảm 20 vụ, đường thủy giảm 01 vụ), số người chết giảm 21 người (đường bộ giảm 20 người, đường thủy giảm 01 người)và số người bị thương giảm 03 người (tập trung ở đường bộ).
6.6. Tình hình môi trường, thiên tai và phòng, chống cháy, nổ
Ngành chức năng tiếp tục giám sát các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, các cơ sở có thông tin phản ánh để kịp thời xử lý theo quy định. Tính đến tháng 4, ngành chức năng đã phát hiện và xử lý 12 vụ vi phạm môi trường, với số tiền xử phạt là 56,5 triệu đồng.
Về tình hình hạn mặn: Tình hình hạn hán, thiếu nước, và xâm nhập mặn (theo báo cáo của Chi Cục Thủy lợi Hậu Giang) tính đến ngày 09/4/2020. Trên địa bàn tỉnh tình hình xâm nhập mặn xuất hiện tại huyện Châu Thành trên sông Cái Côn với nồng độ là 0,2‰ ; tại thành phố Ngã Bảy trên kênh Mang Cá (giáp Sóc Trăng) nồng đồ cao nhất đo được là 0,2‰ do ảnh hưởng của triều Biển Đông; thành phố Vị Thanh với nồng đồ cao nhất đo được là 18,3‰ (ngày 07/4/2020) tại cống kênh Lầu xã Hỏa Tiến; tại đầu kênh 10 Thước của huyện Long Mỹ độ mặn đo được cao nhất là 18,6‰ (ngày 08/4/2020), tại cống Ba Cô xã Lương Nghĩa độ mặn 18,4‰ (ngày 08/4/2020).
Đến thời điểm hiện tại xâm nhập mặn cũng chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống người dân. Tuy nhiên, theo dự báo của Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam bộ và Đài khí tượng Thủy văn tỉnh Hậu Giang, cuối tháng 4/2020 nồng độ sẽ diễn ra ngày càng phức tạp và nghiêm trọng, dự báo độ mặn vẫn duy trì ở mức cao và xâm nhập sâu tương đương năm 2016 và có khả năng ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân.
Về tình hình sạt lở: Trong tháng không xảy ra hiện tượng sạt lở, tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 06 điểm sạt lở. Chiều dài sạt lở là 142m, diện tích mất đất là 497m2. Ước tổng thiệt hại khoảng 571 triệu đồng.
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, trong tháng đã xảy ra 1 vụ cháy ở huyện Vị Thủy, đã làm thiệt hại tài sản khoảng 9 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 02 vụ cháy, với tổng tài sản thiệt hại khoảng 659 triệu đồng, giảm 15,51% so với cùng kỳ năm trước./.
CỤC THỐNG KÊ TỈNH HẬU GIANG
Địa chỉ: Số 05 Đường Điện Biên Phủ, Phường 5, TP. Vị Thanh, Hậu Giang,
Trưởng Ban Biên Tập: Thiều Vĩnh An, Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang
Điện thoại: 0293.3878991 - Fax: 0293.3878991 - Email: Haugiang@gso.gov.vn
© 2018 Thiết kế bởi: Trung tâm CNTT-TT Hậu Giang